Tháng 4-1931, đồng chí Lê Duẩn cùng 36 chiến sĩ cộng sản bị địch bắt. Kẻ thù dùng mọi thủ đoạn từ mua chuộc, dụ dỗ đến tra tấn dã man nhằm tìm ra cơ quan đầu não vào lùng bắt những đồng chí lãnh đạo của Đảng, nhưng vẫn không làm lung lay ý chí và tinh thần chiến đấu của đồng chí. Cuối cùng thực dân Pháp kết án đồng chí 20 năm tù và giam ở nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội.
Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, tại nhà tù Hỏa Lò đồng chí tham gia viết bài đăng trên các tờ báo trong tù như tờ Lao tù tạp chí, Đuốc đưa đường, Con đường chính... Đặc biệt, tờ Đuốc đưa đường do đồng chí làm chủ bút đã phê phán kịch liệt chủ nghĩa tam dân nửa vời của những người cầm đầu Quốc dân Đảng, lên án mạnh mẽ tư tưởng hẹp hòi, trình bày mục tiêu, lý tưởng của người cộng sản là thực hiện cách mạng tư sản dân quyền, giải phóng người lao động, giành độc lập cho đất nước. Từ năm 1932, sau khi các chi bộ Đảng trong tù được củng cố, phong trào học tập, đấu tranh trong Nhà tù Hỏa Lò dần dần đi vào nền nếp và ngày càng phát triển. Chi bộ Đảng bắt tay xây dựng một số tổ chức quần chúng như Lao tù hội, Đoàn thanh niên, Đội hồng thập tự, Ban trật tự... để thông qua đó tập hợp quần chúng, tổ chức đấu tranh. Cùng với các đồng chí trong chi bộ Đảng nhà tù, đồng chí tiến hành củng cố chi bộ Đảng, hăng hái tham gia ý kiến và tổ chức lãnh đạo anh em tù nhân đấu tranh. Nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra, bắt đầu từ những cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù tàn bạo, dần dần phát triển lên những cuộc đấu tranh mang ý nghĩa chính trị và tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản.
Tháng 2-1933, chính quyền thực dân đưa đồng chí Lê Duẩn cùng nhiều chiến sĩ cộng sản khác lên đày ải ở nhà tù Sơn La, sau đó tháng 11-1933, chúng lại đày các đồng chí ra nhà tù Côn Đảo - một nhà tù lớn nhất Đông Dương, nằm giữa trùng khơi, nước sâu, sóng dữ, ở đây người tù bị đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo. Bệnh tật, đòn roi, xà lim, xiềng xích... hủy diệt tàn khốc cuộc sống người tù.
Tại nhà tù Côn Đảo, người tù cộng sản Lê Duẩn luôn lạc quan và giữ vững niềm tin vào sự toàn thắng của sự nghiệp cách mạng. Chỉ một ngày sau khi bị giam ở Đề lao số II, đồng chí Lê Duẩn và một số đồng chí đã liên lạc ngay với chi bộ Đảng nhà tù bên Đề lao số I để tiếp tục cuộc chiến đấu mới lâu dài, gian khổ và ác liệt hơn nhiều.
Tiếp tục thực hiện chủ trương biến nhà tù thành trường học cách mạng, tại nhà tù Côn Đảo các anh em tù nhân tổ chức học tập văn hóa, ngoại ngữ, học lý luận.... đồng chí Lê Duẩn là một tấm gương về tinh thần chịu đựng gian khổ và ý chí vươn lên trong học tập. Đồng chí dành nhiều thời gian trong tù để học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và bồi dưỡng cho các anh em khác. Kiên trì trong học tập, chỉ một thời gian ngắn, đồng chí đã có thể tự mình nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin như: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Chống Đuyrinh... Noi gương đồng chí, phong trào học tập ngày càng lan rộng khắp các khu trại giam. Nhà tù Côn Đảo là “địa ngục trần gian”, nhưng người chiến sĩ cộng sản Lê Duẩn và các đồng chí của mình đã thực sự biến nó thành trường học cách mạng. Sự hung dữ, tàn bạo của kẻ thù không khuất phục được đồng chí, trái lại càng tôi luyện thêm ý chí cách mạng, rèn đúc thêm trí tuệ, phẩm chất và tài năng, làm cho đồng chí sau này trở thành người lãnh đạo được quần chúng tin yêu, đồng chí, bạn bè cảm phục.
Năm 1936, rời nhà tù Côn đảo trở về, bất chấp sự đe dọa, quản thúc của kẻ thù, mặc dù sức khỏe giảm sút sau những năm tháng bị tù đày, đồng chí lăn lộn khắp các nẻo đường miền Trung để chắp nối liên lạc, tuyên truyền, vận động cách mạng để gây dựng phong trào và góp phần vào thắng lợi của phong trào dân tộc dân chủ 1936-1939. Những hoạt động tích cực của đồng chí Lê Duẩn, phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Trị được phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức Đảng được khôi phục, Tỉnh ủy Quảng Trị lập lại. Tháng 3-1938, Xứ ủy Trung Kỳ được lập lại, đồng chí được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Đến năm 1939, đồng chí được cử vào Thường vụ Trung ương Đảng.
Tháng 1-1940, đồng chí lại bị địch bắt, kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai. Những năm 1940-1945, nhà tù Côn Đảo mang cái tên địa ngục trần gian với nghĩa đầy đủ nhất, kẻ địch khủng bố những người tù dã man chưa từng thấy. Mặc dù hằng ngày phải đối mặt tới sự tàn bạo của kẻ thù, chứng kiến sự ra đi của bạn bè, đồng chí, người cộng sản Lê Duẩn vẫn giữ vững niềm tin và động viên đồng đội kiên định con đường đã chọn.
Sự điên cuồng và tàn bạo của kẻ thù cũng chính là những dấu hiệu báo trước sự sụp đổ của chúng. Trên thế giới, chủ nghĩa phát xít bị đánh gục. Ở trong nước, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa thành chính quyền sôi sục khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc. Trong những ngày tháng Tám mùa thu lịch sử, nhân dân cả nước đồng loạt nổi dậy, lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân lập ra chính quyền cách mạng.
Năm 1945, rời nhà tù Côn Đảo lần thứ hai, đồng chí Lê Duẩn trở về Nam Bộ. Sự tham của đồng chí Lê Duẩn và các cựu tù chính trị Côn đảo đã góp phần không nhỏ vào việc củng cố và tăng cường cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Nam Bộ cả về tư tưởng và tổ chức.
Lúc này, cuộc kháng chiến ở Nam Bộ đang trong thời kỳ gay go, lực lượng cách mạng còn mỏng, lại phân tán. Đại hội Đảng bộ Xứ được triệu tập, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Xứ ủy. Trên cương vị này, đồng chí đã đề ra nhiều chủ trương sáng suốt: mở rộng chiến tranh nhân dân; thực hiện dân chủ ở nông thôn, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ Việt gian phản động tạm cấp cho dân cày nghèo; chỉ đạo phong trào đấu tranh ở đô thị; giải quyết thành công vấn đề tôn giáo, làm tốt công tác vận động nhân sĩ, trí thức, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất; đặc biệt là tăng cường công tác xây dựng Đảng. Nhờ giải quyết tốt vấn đề nông dân và liên minh công nông - trí thức trong cách mạng dân tộc dân chủ, nên cuộc kháng chiến ở Nam Bộ không ngừng được đẩy mạnh, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Trên cương vị Bí thư Trung ương cục miền Nam, đồng chí đã thay mặt Trung ương Đảng và Bác Hồ, trực tiếp lãnh đạo phong trào kháng chiến ở Nam Bộ, giải quyết các vấn đề quan trọng như: Đề ra chủ trương cải cách ruộng đất với phương pháp thích hợp, chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, chú trọng vấn đề xây dựng bộ đội chủ lực... Những tiểu đoàn chủ lực lần lượt ra đời, kết hợp với dân quân du kích đã làm cho chiến trường Nam Bộ có những bước phát triển rõ rệt, phối hợp với chiến trường Bắc Bộ, nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng cả nước dành thắng lợi to lớn trong Đông Xuân năm 1953 - 1954, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cả nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cảm phục về sự hoạt động nhiệt thành, lối tư duy năng động, sáng tạo và trí tuệ uyên bác mà nhiều tri thức yêu nước, cán bộ cách mạng và đồng bào Nam Bộ thời kỳ chống Pháp đã ví đồng chí Lê Duẩn là: “ngọn đèn hai trăm nến”.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) được ký kết, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục ở lại miền Nam để lãnh dạo phong trào cách mạng. Trong những năm tháng vô cùng gian khổ, khó khăn dưới chế độ độc tài Mỹ-Diệm, sống trong lòng nhân dân và được nhân dân bảo vệ, đồng chí đã vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, đi khắp các địa bàn Nam Bộ, từ bưng biền Đồng Tháp đến trung tâm Sài Gòn-Chợ Lớn để nắm bắt tình hình, củng cố các cơ sở cách mạng, suy nghĩ và dự thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đề cương khẳng định: “Trong hoàn cảnh đó, nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ-Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó, không còn con đường nào khác”1. Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn của cách mạng miền Nam lúc đó, Đề cương đã dấy lên niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng trong đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân và là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Giữa năm 1957, đồng chí được Trung ương điều ra Hà Nội công tác bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Tình hình trong nước và quốc tế thời gian này hết sức phức tạp. Miền Bắc đang phải khắc phục hậu quả chiến tranh, sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đồng bào miền Nam phải đương đầu với cuộc chiến tranh đơn phương hết sức tàn bạo do Mỹ-Diệm gây ra. Khả năng hòa bình thống nhất nước nhà không còn nữa.
Trên thế giới, trong khi các cường quốc thực dân cũ bị suy yếu, thì Mỹ trở thành tên đế quốc siêu cường, mưu toan làm bá chủ toàn cầu. Nhiều liên minh quân sự được thiết lập, nhằm ngăn chặn trào lưu cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ. Trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản đã xuất hiện nhiều bất đồng về đường lối dẫn đến sự đối lập công khai.
Được Trung ương phân công phụ trách công việc chung của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã hoàn thành một cách xuất sắc vai trò người lãnh đạo chuẩn bị những quyết sách chiến lược về nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước cũng như nhiệm vụ cụ thể của cách mạng hai miền để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị trước khi đưa ra trình Hội nghị Trung ương 15 (khóa II). Là người hiểu rõ tình hình miền Nam, là tác giả của Đề cương cách mạng miền Nam, đồng chí Lê Duẩn luôn tích cực lắng nghe và thúc đẩy các cuộc trao đổi ý kiến để đạt được sự nhất trí cao trong cơ quan lãnh đạo của Đảng. Chính vì trong bối cảnh như thế nên Nghị quyết Trung ương 15 phải họp 2 đợt trong 7 tháng trời. Đề án phải sữa chữa, bổ sung, soạn thảo gần 30 lần, chưa kể thời gian chuẩn bị đề án mất 2 năm ở miền Bắc và hơn 3 năm ở miền Nam.
Nghị quyết 15 gắn liền với tên tuổi đồng chí Lê Duẩn thật sự là một nghị quyết về “Chuyển hướng chiến lược” nhằm xoay chuyển tình thế, tạo ra bước ngoặt của cách mạng miền Nam – từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch, vận dụng và phát huy phương pháp cách mạng của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh mới, từ đây cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế chủ động tiến công. Khắp miền Nam cán bộ, đảng viên và nhân dân đón tiếp Nghị quyết 15 như “đang cơn nắng gặp mưa rào”, đã vùng lên chuyển từ thế đấu tranh chính trị trong những ngày đen tối thành thế chủ động tiến công địch trên các vùng, giành thắng lợi từng bước và tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ”, thực hiện ý đồ chiến lược của Đảng là phải ghìm địch ở miền Nam và đánh địch ở miền Nam.
Với sự dẫn dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vàlà Phó Ban chuẩn bị Văn kiện Đại hội lần thứ III của Đảng, trực tiếp chỉ đạo bộ phận chuẩn bị những quyết sách chiến lược về nhiệm vụ cách mạng hai miền, đồng chí Lê Duẩn đã thể hiện là một kiến trúc sư chiến lược. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ III của Đảng do đồng chí trình bày khẳng định: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, kết hợp chặt chẽ cách mạng hai miền nhằm hoàn thành mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà”1. Đường lối độc lập tự chủ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III vạch ra, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bí thư thứ nhất của Đảng - đồng chí Lê Duẩn - đã phát huy đầy đủ sức mạnh của dân tộc, của thời đại, đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của đất nước ta bước sang trang mới.
Khi Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ” dùng quân đội Mỹ trực tiếp xâm lược Việt Nam, đồng chí và Quân ủy Trung ương đã đề nghị với Bộ Chính trị chuyển đất nước vào trạng thái chiến tranh, động viên mọi nguồn lực cho kháng chiến chống Mỹ. Ngay khi Mỹ đang ồ ạt đưa quân vào miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, đồng chí đã sớm phát hiện ra những yếu điểm, khó khăn của Mỹ, đồng chí cùng Bộ Chính trị đề ra chủ trương đánh bại các chiến lược phản công của địch, tiếp đến đề ra chủ trương táo bạo Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, đánh bại các chiến lược “Chiến tranh cục bộ” “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Đặc biệt, từ tháng 9-1969, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí đã đem hết năng lực trí tuệ lãnh đạo chiến tranh cách mạng, cùng với toàn Đảng, toàn dân ta đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã thể hiện trình độ cao, phương châm tích cực, chủ động và cơ động, linh hoạt của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương mà người đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn, đã quyết định đúng, nhanh chóng kế hoạch giải phóng miền Nam. Với tinh thần “thần tốc, táo bạo, quyết thắng”, trong vòng hai tháng cuộc tiến công như vũ bão của ta đã làm cho địch không kịp trở tay, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, dân tộc Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, làm nên một kỳ tích của dân tộc ta, một trong những sự kiện vĩ đại của lịch sử cận đại thế giới trong thế kỷ XX.
Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo tài trí, sáng suốt, kiên quyết của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đồng thời cũng gắn liền với bộ tham mưu tối cao của cách mạng, gồm những nhà chính trị xuất sắc, nhà quân sự tài năng, mưu lược, dũng cảm, mà người đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Không chỉ thể hiện là một kiến trúc sư chiến lược, đồng chí còn là một nhà tổ chức tài năng, góp phần to lớn vào việc lãnh đạo xây dựng miền Bắc từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn và vững chắc của cả nước, đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bẻ gãy ý chí xâm lược của chúng. Với nhãn quan chính trị sắc sảo và tư duy chiến lược kiệt xuất của một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, đồng chí đã đưa ra những luận điểm hết sức đúng đắn, sáng tạo, những luận điểm về “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt” để xúc tiến công nghiệp hóa nước ta, luận điểm về “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”, luận điểm về “bước đi ban đầu” của cách mạng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa to lớn và là cơ sở để ngày nay Đảng ta hoạch định đường lối phát triển đất nước.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH, tại Đại hội lần thứ IV (1976), lần thứ V (1982) của Đảng và nhiều Hội nghị Trung ương, đồng chí Lê Duẩn đã cùng với Ban Chấp hành Trung ương từng bước xây dựng một hệ thống quan điểm về chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở Việt Nam và đã lãnh đạo thực hiện đạt được những thành tựu quan trọng. Đó là việc xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của CNXH; đó là sự đảm bảo vững chắc về chính trị và an ninh quốc phòng của Tổ quốc, đồng chí đã cùng với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo ngăn chặn, đẩy lùi các cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc; đó là những thành tựu về văn hóa, đạo đức, lối sống, cùng quan hệ tốt đẹp giữa người với người do chế độ XHCN đem lại. Nhờ những thành tựu đó đất nước ta đã đứng vững trước những thử thách khắc nghiệt trong những năm sau chiến tranh với bao biến động chính trị quốc tế to lớn của thời cuộc để tiếp tục tiến lên theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.
Suốt đời kiên cường đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, cho độc lập của dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, “Sự sáng suốt của đồng chí thể hiện nổi bật trước những bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp. Lịch sử nước ta mãi mãi khẳng định công lao to lớn và cống hiến suất sắc của đồng chí”. Đó là hiện thân sinh động của một chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng ta. Châu Minh-Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
1 Lê Duẩn: Tuyển tập, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1987, t.1, tr.78.
1 Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng: Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.190.