Theo đó, điều tra xu hướng SXKD hàng quý bao gồm 6.500 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và 5.300 doanh nghiệp ngành xây dựng được chọn mẫu điều tra, đại diện cho toàn ngành chế biến, chế tạo và xây dựng của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tổng số doanh nghiệp trả lời trong kỳ điều tra quý II/2023 là 5.635 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 86,7% số doanh nghiệp được chọn mẫu điều tra) và 4.986 doanh nghiệp ngành xây dựng (chiếm 93,8% số doanh nghiệp được chọn mẫu điều tra).
|
Hoạt động SXKD của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II khởi sắc hơn quý I (Ảnh: PV) |
Hoạt động chế biến chế tạo dự báo sẽ khả quan hơn
Theo đánh giá của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, hoạt động SXKD quý II khởi sắc hơn quý I với 64,2% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý II tốt hơn và giữ ổn định, 35,8% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn quý I. Dự báo quý III khả quan hơn quý II với 72,6% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD tốt hơn và giữ ổn định, 27,4% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
Đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp có thể dựa trên các chỉ số cân bằng với các chỉ số cân bằng chung, chỉ số cân bằng đơn đặt hàng mới, chỉ số cân bằng sử dụng lao động, chỉ số cân bằng khối lượng sản xuất, chỉ số cân bằng tồn kho thành phẩm…
Liên quan tới biến động của các yếu tố đầu vào, Báo cáo nêu rõ các số liệu cụ thể về gia giảm của số lượng đơn đặt hàng, trong đó đề cập tới đơn đặt hàng xuất khẩu mới với con số khảo sát nêu rõ, có 61,7% doanh nghiệp nhận định số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới quý II tăng và giữ nguyên so với quý I, tỷ lệ doanh nghiệp nhận định có đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm là 38,3%.
Về biến động sử dụng lao động, lao động trong các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý II, có 10,8% doanh nghiệp nhận định sử dụng lao động so với quý I tăng; 65,1% doanh nghiệp nhận định giữ nguyên và 24,1% doanh nghiệp nhận định giảm. Dự báo sử dụng lao động quý III so với quý II khả quan hơn với 83,4% số doanh nghiệp dự kiến số lao động tăng và giữ nguyên; 16,6% doanh nghiệp dự kiến lao động giảm.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, quý II có 91,0% doanh nghiệp nhận định chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên. Dự báo quý III so với quý II, có 90,8% doanh nghiệp dự báo chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên.
Đặc biệt, đề cập tới biến động về tồn kho, báo cáo cho thấy, theo kết quả khảo sát, có 20,8% doanh nghiệp nhận định khối lượng thành phẩm tồn kho quý II tăng so với quý I; 49,5% doanh nghiệp đánh giá giữ nguyên và 29,7% đánh giá giảm. Dự báo quý III so với quý II, có 16,4% doanh nghiệp dự báo khối lượng tồn kho thành phẩm tăng; 53,8% doanh nghiệp dự báo giữ nguyên khối lượng tồn kho thành phẩm; 29,8% doanh nghiệp dự báo khối lượng tồn kho thành phẩm giảm.
Với tồn kho nguyên vật liệu, kết quả khảo sát cho thấy, có 69,4% doanh nghiệp nhận định tồn kho nguyên vật liệu quý II so với quý I tăng và giữ nguyên (18,0% tăng, 51,4% giữ nguyên), 30,6% doanh nghiệp nhận định giảm. Dự báo quý III so với quý II, có 15,1% doanh nghiệp đánh giá khối lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng, 54,8% doanh nghiệp đánh giá giữ nguyên và 30,1% doanh nghiệp dự kiến giảm khối lượng tồn kho nguyên vật liệu.
Báo cáo cũng chỉ ra, quý II, hoạt động SXKD của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tuy vẫn gặp khó khăn nhưng đã có dấu hiệu phục hồi. Khu vực doanh nghiệp FDI gặp nhiều khó khăn nhất với chỉ số cân bằng chung dưới 0% trong 3 quý liên tiếp từ quý IV/2022 đến quý II/2023.
Cũng theo báo cáo, trong quý II, hai yếu tố “nhu cầu thị trường trong nước thấp” và “tính cạnh tranh của hàng trong nước cao” vẫn là những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp với tỷ lệ doanh nghiệp lựa chọn lần lượt là 55,5% và 47,2%. Việc cắt điện luân phiên tại một số địa phương phía Bắc đã ảnh hưởng đến SXKD của doanh nghiệp, thể hiện qua yếu tố “thiếu năng lượng” trở thành lựa chọn của nhiều doanh nghiệp với 8,5% doanh nghiệp lựa chọn, tăng 7,1% so với quý trước, đây là yếu tố biến động nhiều nhất trong số các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Để hỗ trợ hoạt động SXKD của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong các tháng tiếp theo, các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo kiến nghị: Thứ nhất, đảm bảo ổn định năng lượng, cung cấp đủ điện cho các doanh nghiệp hoạt động SXKD liên tục, không bị gián đoạn. Thứ hai, kích cầu thị trường trong nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm hiệu quả. Thứ ba, các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính mong muốn được giảm lãi suất vay vốn và được hỗ trợ quá trình hoàn thiện hồ sơ vay vốn nhanh hơn để doanh nghiệp có nguồn vốn SXKD kịp thời và hiệu quả hơn.
|
Cần nhóm hỗ trợ hiệu quả để vực SXKD ngành xây dựng (Ảnh: HNV) |
Đồng bộ nhóm giải pháp để hỗ trợ SXKD ngành xây dựng
Hoạt động SXKD của các doanh nghiệp xây dựng quý II khả quan hơn quý I. Dự báo quý III, các doanh nghiệp xây dựng nhận định hoạt động SXKD tốt lên, thuận lợi hơn và tiếp tục giữ ổn đinh dù còn khó khăn.
Đáng chú ý là đảm bảo nguồn nhân lực trong SXKD của ngành, cụ thể, quý II, đa số các doanh nghiệp đều chung nhận định lao động thường xuyên tăng và không đổi, chỉ có một số ít cho rằng giảm. Dự báo quý III, có 10,9% doanh nghiệp nhận định lao động thường xuyên tăng so với quý II; 78,5% doanh nghiệp nhận định không đổi và 10,6% doanh nghiệp nhận định giảm.
Kết quả khảo sát quý II cho thấy, có 22,9% doanh nghiệp đánh giá hoạt động dưới 50% năng lực thực tế của doanh nghiệp; 33,1% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 50% đến dưới 70% năng lực thực tế; 26,1% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 70% đến dưới 90%; 15,7% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 90 đến 100%; 2,2% doanh nghiệp đánh giá doanh nghiệp hoạt động trên 100% năng lực thực tế của doanh nghiệp.
Cũng theo kết quả khảo sát, có 75,9% doanh nghiệp vay vốn phục vụ SXKD. Theo nguồn vay, có 80,9% doanh nghiệp vay ngân hàng; 11,4% doanh nghiệp vay người thân, bạn bè; 6,3% doanh nghiệp vay tổ chức tín dụng khác; 2,2% doanh nghiệp vay nhân viên ngân hàng, tổ chức tín dụng không qua thủ tục chính thức; 1,6% doanh nghiệp vay từ các nguồn khác. Trong số các doanh nghiệp có vay vốn ngân hàng phục vụ SXKD, chỉ có 24,0% doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay ưu đãi; 76,0% doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vay ưu đãi.
Theo đánh giá của các doanh nghiệp xây dựng, hai yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp xây dựng là "giá nguyên vật liệu tăng cao” và “không có hợp đồng xây dựng mới”. Có 52,0% doanh nghiệp cho rằng giá nguyên vật liệu tăng cao là yếu tố ảnh hưởng đến SXKD của doanh nghiệp trong quý II, dự báo quý III tỷ lệ này giảm còn 51,4%. Tương tự, có 49,6% doanh nghiệp nhận định “không có hợp đồng xây dựng mới” là yếu tố ảnh hưởng đến SKXD của doanh nghiệp trong quý II, dự báo quý III tỷ lệ này giảm còn 44,6%.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động SXKD, các doanh nghiệp xây dựng đề xuất một số nhóm kiến nghị, cụ thể:
Đầu tiên, đề nghị được hỗ trợ về vốn cho SXKD như được vay vốn ưu đãi, thủ tục vay vốn thuận lợi và nhanh chóng hơn, giảm lãi suất cho vay; được hỗ trợ về nguyên vật liệu như đảm bảo nguồn cung và bình ổn giá nguyên vật liệu; (3) thông tin đấu thầu cần công khai, minh bạch; tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính; bàn giao mặt bằng đúng tiến độ để đảm bảo thời gian thi công đúng hợp đồng đã ký kết; nhất là phải có chế tài xử phạt các chủ đầu tư chậm thanh quyết toán nợ đọng xây dựng cơ bản để doanh nghiệp xây dựng quay vòng vốn cho hoạt động SXKD.
Ngoài các nhóm kiến nghị trên, các doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng kiến nghị Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung hướng dẫn điều kiện rõ ràng để xác định đối tượng được vay gói hỗ trợ lãi suất 2% (theo nghị quyết số 43/2022/QH15). Đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện vay, cần hướng dẫn chi tiết, cụ thể thủ tục để doanh nghiệp sớm được giải ngân.
Bên cạnh đó, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giãn nợ thuế, gia hạn thời gian nộp thuế; chuyển một phần gói hỗ trợ lãi suất 2% sang những mục tiêu khác như quỹ hỗ trợ thuế để hỗ trợ những doanh nghiệp không đủ điều kiện vay.
Ngoài ra, có một thực tế là lao động nghỉ việc, chuyển việc do bị nợ lương, chậm lương quá lâu. Vì vậy, doanh nghiệp mong muốn được nhanh chóng thanh quyết toán nợ đọng, được giải ngân vốn, tạm ứng vốn đúng kỳ hạn để thanh toán nợ lương cho người lao động.
Cuối cùng, bàn giao mặt bằng đúng tiến độ, công tác quy hoạch đối với những dự án được phê duyệt từ lâu nên rà soát lại cho phù hợp với thực tế để doanh nghiệp khi triển khai không bị gián đoạn./.