Tổng quan về tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay
- Ở trong nước: Trên lĩnh vực đối ngoại, hội nhập: Từ một nước bị tàn phá bởi chiến tranh, công cuộc Đổi mới đã đưa đất nước bứt phá, Việt Nam có quan hệ với 191 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc (tính đến tháng 4/2022). Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên hợp quốc, chúng ta đã tham gia hầu hết các tổ chức, diễn đàn của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức đa phương khác ở khu vực và thế giới; Việt Nam có 17 đối tác chiến lược, thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với 13 nước và có quan hệ đặc biệt với Lào, Cuba,...; ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới cả song phương và đa phương, quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia, vùng, lãnh thổ... Đây là những cơ sở, điều kiện thuận lợi để Việt Nam nâng cao hình ảnh, uy tín trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Việt Nam đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh phát triển.Việt Nam đã thiết lập khuôn khổ quan hệ rất cao với tất cả 5 nước thường trực trong Hội đồng Bảo an LHQ, G7, 17/20 nước thuộc G20. Đảng ta có quan hệ đối ngoại với 247 đảng ở 111 quốc gia.
Tuy vậy, tình hình đất nước hiện nay cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức. Hội nghị giữa nhiệm kỳ (Hội nghị TW7, khóa XIII) đã chỉ ra một số hạn chế, tồn tại: Công tác xây dựng Ðảng, công tác nắm tình hình, nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng có lúc, có nơi chưa kịp thời, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 đột phá chiến lược, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để giải phóng, thúc đẩy các nguồn lực cho phát triển kinh tế, tổ chức thực hiện một số chính sách phục hồi phát triển kinh tế - xã hội có lúc, có nơi còn chậm, hiệu quả chưa cao. Công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp, quản lý, sử dụng biên chế có mặt còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; công tác xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, tháo gỡ vướng mắc về thể chế chậm được cải tiến. Một số đồng chí lãnh đạo cấp cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận trách nhiệm chính trị, có vi phạm phải xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Tình hình thế giới, khu vực: Hòa bình, hợp tác và phát triển tuy đứng trước nhiều trở ngại, song tiếp tục là xu thế lớn. Cục diện đa cực, đa trung tâm ngày càng định hình rõ nét. Quá trình toàn cầu hóa, liên kết kinh tế tiếp tục tiến triển với một số nội dung, hình thức mới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy toàn cầu hóa, liên kết kinh tế; thúc đẩy thương mại, đầu tư quốc tế: Kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế chia sẻ phát triển; khâu, công đoạn, địa điểm sản xuất… thay đổi; năng suất lao động tăng.
Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt (trọng tâm là giữa Mỹ và Trung Quốc). Cạnh tranh giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, tác động tiêu cực đến môi trường an ninh, phát triển ở các khu vực và trên thế giới; tạo sức ép với các nước vừa và nhỏ khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á - địa bàn trung tâm của cạnh tranh nước lớn. Điều này dẫn đến sự chuyển biến nhanh chóng về tương quan lực lượng giữa các nước lớn.
Về chính sách, Mỹ hoàn thiện hệ thống chiến lược, tiếp tục xác định Trung Quốc và Nga là hai đối thủ chủ yếu; Trung Quốc tăng cường đối phó, phản đối Mỹ làm gia tăng hoài nghi về các sáng kiến do Trung Quốc khởi xướng; Nga tiếp tục xác định Mỹ là đối thủ hàng đầu. Về cạnh tranh trong các lĩnh vực: Chính trị: Mỹ đẩy mạnh vấn đề dân chủ; Trung Quốc công khai phê phán Mỹ và phương Tây phát động cạnh tranh mới về ý thức hệ; Nga có các hành động đáp trả đối với nhiều biện pháp cấm vận của Mỹ và đồng minh. Kinh tế - khoa học công nghệ: Mỹ chuyển mạnh sang kiếm chế sự phát triển của Trung Quốc, đặt trọng tâm năm 2022 siết chặt khả năng Trung Quốc tiêp cận và tự chủ phát triển công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ bán dẫn; Quân sự: chi tiêu quốc phòng có xu thế tăng mạnh.
Bên cạnh đó, xu thế tập hợp lực lượng diễn ra mạnh cả về phương thức và nội dung: Về địa chính trị: Mỹ và đồng minh củng cố NATO; Trung Quốc mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á, tăng liên kết với Nga; Nga tăng cường củng cố ảnh hưởng ở Bê-la-rút và không gian hậu Xô - Viết, Trung Đông; Mỹ chủ trương phân loại đối tác để tổ chức lại chuỗi cung ứng, ưu tiên các nước “đồng minh” và nước “có quan hệ hữu nghị”. Đối với các thể chế quốc tế trong khu vực: Các nước lớn can dự và thể hiện vai trò dẫn dắt các cơ chế hiện có: Trung Quốc khởi xướng các sáng kiến mới; Mỹ tiếp tục củng cố các cơ chế tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; Nga, Trung Quốc đẩy mạnh các cơ chế đa phương.
Chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng, thách thức vai trò của luật pháp và các thể chế quốc tế: Một số nước đế quốc diễn giải sai lệch hoặc đi ngược lại luật pháp quốc tế, hoặc áp dụng “tiêu chuẩn kép”, khiến luật pháp quốc tế trong nhiều trường hợp bị thách thức nghiêm trọng.; Sử dụng các thể chế quốc tế nhằm phục vụ lợi ích cạnh tranh chiến lược, khiến hoạt động của các thể chế quốc tế trở nên phức tạp và thiếu tính ổn định; Bỏ qua dư luận và luật pháp quốc tế để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, hoặc chèn ép lợi ích của nước nhỏ. Bên cạnh đó, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, dân túy và tư tưởng cực hữu tiếp tục diễn biến phức tạp. Quá trình toàn cầu hóa càng làm các vấn đề xã hội trở nên gay gắt và lan rộng, nhất là sự phân hóa giàu nghèo ở mỗi quốc gia. Các vấn đề an ninh phi truyền thống đang ngày càng trở thành thách thức lớn của thế giới, và là mối quan tâm lớn, thường xuyên của mỗi quốc gia.
Đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Đây là địa bàn cạnh tranh chiến lược của các nước lớn; tiềm ẩn nhiều thách thức đối với hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực và thế giới; động lực của kinh tế thế giới. Đối với khu vực này, cạnh tranh nước lớn mở rộng, diễn ra gay gắt hơn khiến tình hình an ninh - chính trị thế giới diễn biến ngày càng căng thẳng và phức tạp.
Mỹ khẳng định tiếp tục coi trọng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, lôi kéo các nước khu vực và Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trung Quốc tăng cường sử dụng các đòn bẩy ngoại giao, chính trị, kinh tế, phát triển nhằm tăng cường vai trò của mình trong khu vực. Ấn Độ củng cố vị trí chiến lược, tăng cường liên kết theo các vấn đề. Củng cố quan hệ với Mỹ, đề phòng Trung Quốc, có điều chỉnh giữ khoảng cách với Nga. ASEAN nỗ lực triển khai các sáng kiến xây dựng Cộng đồng, đồng ý kết nạp Đông Ti-mo; tích cực thúc đẩy vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực, tuy nhiên ASEAN cũng gặp nhiều khó khăn. Tình hình Biển Đông tuy không xảy ra sự cố nghiêm trọng trên thực địa, song tiếp tục diễn biến phức tạp, căng thẳng do cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc.
Tương quan giữa các lực lượng chính trị chủ yếu trên thế giới hiện nay: Lực lượng cánh tả: đạt bước tiến tích cực tại khu vực Mỹ La-tin, ghi nhận sự khôi phục vị thế trở lại trên chính trường nhiều nước quan trọng tại khu vực; Lực lượng cánh hữu: tiếp tục gia tăng ảnh hưởng tại chính trường nhiều nước châu Âu. Lực lượng cộng sản, công nhân trên thế giới nỗ lực duy trì hoạt động, song cơ bản vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là về tài chính và phát triển lực lượng. Diễn đàn đa phương chính đảng: tích cực phục hồi các cơ chế gặp gỡ trực tiếp, góp phần quan trọng duy trì hợp tác, chia sẻ quan điểm, lập trường giữa các đảng thành viên. Hoạt động nhân dân thế giới diễn ra liên tục, sôi động, thu hút sự quan tâm, hưởng ứng rộng rãi của lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, cần chú trọng xây dựng thế trận lòng dân để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể:
Thứ nhất, không ngừng giáo dục, vun đắp những giá trị đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
“Thế trận lòng dân”, thế trận khu vực phòng thủ cấp tỉnh, huyện, thế trận phòng thủ quân khu, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở tất cả các cấp, các địa bàn, cả trong nội địa, biên giới, biển, đảo và trên các môi trường (bộ, không, biển, không gian mạng). Cần làm rõ những yêu cầu mới về chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện hiện nay, như phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ vùng trời, vùng biển, hải đảo của Tổ quốc; yêu nước gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, nền văn hóa dân tộc, chế độ chính trị của đất nước... Cần rà soát, làm tốt việc phân vùng chiến lược về quốc phòng, an ninh, quy hoạch khu kinh tế gắn với quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng, quy hoạch thế trận quân sự các khu vực phòng thủ. Tiếp tục xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động, gắn công tác tư tưởng với tổ chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là điều chỉnh bố trí lại dân cư; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, tiếp tục huy động nguồn lực cho xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận quân sự; ưu tiên xây dựng các công trình phòng thủ thiết yếu (căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật,...) gắn với phòng thủ dân sự; quản lý chặt chẽ các công trình quốc phòng, các địa hình có giá trị phòng thủ,... tạo lập thế trận rộng khắp, liên hoàn, vững chắc giữa các khu vực và trên từng hướng chiến lược. Điều chỉnh bố trí lực lượng quốc phòng, an ninh hình thành thế chiến lược đảm bảo sẵn sàng xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ.
Thứ hai, nhận thức sâu sắc mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giáo dục mục tiêu quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng, bồi đắp, củng cố lòng tin của bộ đội đối với Đảng, Nhà nước, làm cho toàn quân không chỉ thiết tha với lợi ích quốc gia - dân tộc, mà còn gắn bó với Đảng, Nhân dân, với chế độ chính trị, từ đó nâng cao ý thức tự giác về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi công dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục giáo dục tinh thần yêu nước trong tình hình hiện nay, gắn với liên hệ những bài học, kinh nghiệm giải quyết những vấn đề điển hình cụ thể diễn ra trong thực tiễn đơn vị mình và đơn vị bạn; rút ra những nguyên tắc, kinh nghiệm nhằm nâng cao trách nhiệm xây dựng và đấu tranh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Cần đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho các đối tượng; tăng cường phối hợp thường xuyên, chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương. Cần tiếp tục giáo dục quan điểm của Đảng về xác định đối tượng, đối tác và sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác; giáo dục lòng vị tha, đức khoan dung, xây dựng ý thức xác định bạn, thù dựa trên lợi ích quốc gia - dân tộc. Đẩy mạnh công tác dân vận, phát huy vai trò “đội quân công tác” của bộ đội khi tham gia vận động, tuyên truyền, giúp đỡ các tầng lớp nhân dân, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Giáo dục việc kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại trên các vùng, miền chiến lược. Đặt xây dựng “thế trận lòng dân” với tư tưởng phát huy vai trò của nhân dân, nhân dân là chủ thể trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Phát triển tư tưởng “dân làm gốc”, xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với tư tưởng phát huy vai trò của nhân dân, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang là nòng cốt trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” trong tính chỉnh thể với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” .
Thứ ba là, xây dựng Đảng trong sạch, chính quyền vững mạnh
Cần triển khai các biện pháp thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kết hợp chặt chẽ việc xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân, bảo vệ vững chắc an ninh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đối ngoại quốc phòng. Cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy định trách nhiệm, quyền hạn người đứng đầu; bổ nhiệm người có “tâm” sáng, thực sự có tài; hạn chế nạn nhũng nhiễu, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền. Chủ động thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của bộ máy chính quyền trong xây dựng, củng cố, phát huy tiềm lực chính trị - tinh thần; làm cho bộ máy chính quyền thực sự gần dân, vì dân, không nhũng nhiễu, gây khó cho dân. Xây dựng quy định mang tính pháp lý về quan hệ giữa lãnh đạo chính quyền với các doanh nghiệp, doanh nhân, không để các bên lợi dụng lẫn nhau làm tổn hại lợi ích, tài sản của công; răn đe, phòng ngừa có hiệu quả tham nhũng, lãng phí. Chính quyền các cấp cần tận tâm, tận lực công việc “chăm sóc” cuộc sống bình thường của người dân, làm sao dân thực sự tôn trọng, yêu mến, bảo vệ chính quyền. Khi có “biến”, người dân sẵn sàng không tiếc công sức, của cải, thậm chí hy sinh thân mình để cứu nước. Trong mọi công việc, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” . Nhân dân là trung tâm, là chủ thể thực sự của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là điều kiện bảo đảm thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư là, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc tại các địa bàn chiến lược
Quan tâm xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc tại các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo; coi đây là nền tảng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần đảm bảo thắng lợi. Đây là phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên các địa bàn; là sự cụ thể hóa quan điểm xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đảm bảo cho thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng “thế trận lòng dân” trong Quân đội, Công an - lực lượng này là nòng cốt, có nhiều khả năng và phát huy có hiệu quả vai trò trong xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Củng cố niềm tin của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ; của những người trực tiếp tham gia huấn luyện, diễn tập và khi xảy ra chiến tranh, sẽ trực tiếp cầm súng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc từng mảnh đất, vùng trời, vùng biển, đảo của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở củng cố “thế trận lòng dân” trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Cốt lõi của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc chính là sự đoàn kết, thống nhất của cả dân tộc. Cần tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn quan điểm “dân là gốc”, xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu khách quan, là điều kiện tiên quyết. Xây dựng "thế trận lòng dân" trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Cần tiếp tục tăng cường phối hợp, đấu tranh bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài, làm cho công dân Việt Nam được tôn trọng, được đảm bảo các quyền công dân hợp pháp, được tạo thuận lợi đầu tư, kinh doanh ngay tại quê hương mình, đồng thời góp phần động viên đồng bào tôn trọng luật pháp nước chủ nhà, luật pháp quốc tế, không làm điều gì tổn hại thanh danh đất nước.
Thứ năm là, phát huy vai trò đối ngoại trong xây dựng “thế trận lòng dân”
Chú ý phát huy vai trò hàng đầu của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Học tập và phát huy vai trò, bài học kinh nghiệm giữ nước bằng ngoại giao, “hạ sách mới phải dùng binh”. Ta cần xem xét thận trọng để tránh trở thành một bên đối chọi với Mỹ, phương Tây, nhưng cũng không bị cô lập trong trật tự kinh tế thế giới mới 2 cực đang hình thành; vừa duy trì quan hệ với Nga và Trung Quốc, vừa hợp tác với Mỹ và các đối tác phương Tây. Không ảo tưởng dựa vào nước lớn để bảo vệ chủ quyền đất nước. Không chọn bên trong quan hệ với các nước lớn; chỉ chọn lẽ phải, công lý theo nghĩa rộng (tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập, chủ quyền, nhân quyền, tự do...); không đối đầu, bảo vệ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Chúng ta tiếp tục giữ lập trường trung lập, cần nghiên cứu và kịp thời điều chỉnh chính sách quốc phòng, cũng như chiến lược quốc phòng và chiến lược quân sự.
Cần học tập kinh nghiệm đa dạng hóa đối tác hợp tác kỹ thuật quân sự, mở rộng hợp tác công nghiệp quốc phòng với các đối tác tiềm năng... vì lợi ích quốc phòng, an ninh của đất nước, nhằm hạn chế lệ thuộc vào một đối tác; hạn chế bị lỡ, hủy bỏ kế hoạch hợp tác công nghiệp quốc phòng. Tranh thủ tìm kiếm nguồn sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa trang bị, vũ khí hiện có, nguồn cung nguyên liệu, linh kiện sản xuất công nghiệp quốc phòng từ một số đối tác khác. Bên cạnh việc tự lực đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội, cần đa dạng hóa mạnh mẽ các nguồn bổ túc kiến thức kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự.
Thứ sáu là, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc “thế trận lòng dân”
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục; cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin để nhân dân phân biệt rõ đúng - sai, tốt - xấu, tích cực - tiêu cực. Sử dụng đồng bộ các phương tiện thông tin đại chúng; chú trọng tuyên truyền công khai trên các báo điện tử, trang tin điện tử; qua các trang mạng xã hội; qua tuyên truyền miệng… Đa dạng hóa các phương pháp đấu tranh, sử dụng đồng bộ, kết hợp có hiệu quả các phương pháp đối thoại, đấu tranh trực diện nhằm thuyết phục những người có nhận thức sai lầm, lệch lạc, không “đẩy” họ về phía “bên kia”. Đẩy mạnh đấu tranh trên không gian mạng thông qua các ứng dụng Zalo, Facebook, các Fanpage, blog, kênh Youtube… chỉ rõ đúng - sai, thật - giả.
Thứ bảy là, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, tiêu cực, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, tiêu cực; không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự tự giác, thống nhất cao về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm khiết; xây dựng văn hoá tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng của “thế trận lòng dân” và quan điểm của Đảng về xây dựng, phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”. Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” là sự phát triển tư tưởng lấy “dân là gốc”, phát huy sức mạnh của nhân dân, là “kế sách giữ nước” từ sớm, từ xa, là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn dân./. Văn Lãn