Vượt thách thức, tăng sức cạnh tranh cho ngành chăn nuôi lợn 

(ĐCSVN) - Chăn nuôi lợn là một trong những ngành quan trọng, góp phần cung cấp lượng lớn thực phẩm cho nước ta. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế cũng như chịu tác động từ các yếu tố dịch bệnh, áp lực chi phí sản xuất đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho ngành.

 

 Chăn nuôi lợn nước ta hiện đang có xu hướng chuyển dịch từ quy mô nhỏ sang quy mô lớn hơn, tăng phát triển các mô hình trang trại, tập trung (Ảnh: B.T)

Chuyển dịch từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang quy mô lớn hơn

Theo Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), trong thời gian qua, tăng trưởng đàn lợn của nước ta có sự biến động mạnh về tổng đàn và sản lượng. Trong đó, tổng đàn lợn đạt cao nhất vào năm 2016 (29,1 triệu con), sau đó do có khủng hoảng thừa, tổng đàn lợn giảm xuống vào năm 2017 (27,4 triệu con), tăng trở lại vào năm 2018 (28,1 triệu con), sau đó giảm sâu kỷ lục vào năm 2019 do dịch tả lợn Châu Phi (19,6 triệu con). Tổng đàn lợn được hồi phục nhẹ năm 2020 (22 triệu con) và tăng trưởng trở lại vào năm 2021 (28 triệu con).

Trong giai đoạn 2015-2021, tổng đàn lợn cả nước tăng trưởng bình quân 0,2%/năm. Số lợn thịt xuất chuồng tăng 0,3% và tổng sản lượng thịt xuất chuồng tăng 2,8% do năng suất sinh sản và khối lượng xuất chuồng của lợn thịt tăng lên. Riêng năm 2021, sản lượng thịt lợn đạt 4,18 triệu tấn, chiếm 62,5% trong tổng sản lượng thịt hơi 6,69 triệu tấn.

Về diễn biến thị trường trong nước, từ tháng 1/2021 đến tháng 8/2021, giá lợn thịt hơi xuất chuồng giảm 30-35%, duy trì ở mức thấp 43-49 nghìn đồng/kg; đến tháng 11/2021 tăng nhẹ lên trên 50 nghìn đồng/kg; tháng 12/2021 giá tăng lên và dao động quanh mức 54-57 nghìn đồng/kg và duy trì đến trung tuần tháng 2/2022. Đến cuối tháng 2/2022, giá lợn thịt hơi xuất chuồng có xu hướng giảm xuống còn 53-56 nghìn đồng/kg; sang đầu tháng 3/2022 giá giảm còn 50-53 nghìn đồng/kg.

Giá lợn thịt hơi xuất chuồng của 3 miền biến động khá thống nhất, không có chênh lệch lớn giữa các vùng, tuy nhiên, do khả năng cung ứng khác nhau, giữa các tỉnh có sự chênh lệch trong khoảng 2-4 nghìn đồng/kg lợn hơi.

Đáng chú ý, theo Cục Chăn nuôi, chăn nuôi lợn nước ta hiện nay đang có xu hướng chuyển dịch từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang chăn nuôi hộ có quy mô lớn hơn, tăng phát triển các mô hình trang trại, tập trung và hình thành các chuỗi giá trị. Năm 2021, tổng hợp báo cáo của các địa phương cho thấy, cả nước có 20.843 cơ sở chăn nuôi lợn từ 10 con trở lên với tổng đầu con 11,7 triệu con, chiếm tỷ lệ 41,6% so với tổng đàn lợn của cả nước.

Tại 16 doanh nghiệp và đơn vị chăn nuôi lợn quy mô lớn, năm 2021 tổng đàn lợn đạt 5,8 triệu con, chiếm 20,7% tổng đàn. Các doanh nghiệp chăn nuôi lớn trong nước (như Dabaco, Masan, Tân Long, Thiên Thuận Trường, Mavin,...) và nước ngoài (CP, Jafa comfeed, Newhope, CJ, Emivest, Cargill...) đang xây dựng và từng bước hình thành hệ thống trang trại liên kết chuỗi. Đây chính là bước chuyển dịch cơ cấu để từng bước hiện đại hóa ngành chăn nuôi.

Vẫn còn đó những thách thức lớn

Là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cung cấp sản lượng thịt hơi hàng năm của cả nước, tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Chăn nuôi, ngành chăn nuôi lợn nước ta hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó là đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp cả trong nước và trên thế giới gây nhiều tác động tiêu cực đến đời sống, kinh tế, xã hội, làm đứt gãy các chuỗi cung ứng và gây ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất và hoạt động xuất, nhập khẩu, cung ứng nông sản. Ngành chăn nuôi cũng không là ngoại lệ khi cũng phải gánh chịu nhiều thiệt hại do chi phí sản xuất, vận chuyển tăng cao, lợi nhuận người chăn nuôi giảm mạnh.

Bên cạnh đó, dịch tả lợn Châu Phi vẫn bùng phát tại nhiều địa phương gây sụt giảm mạnh tổng đàn dẫn đến thiếu hụt thực phẩm buộc nước ta phải nhập khẩu thịt lợn, thậm chí cả lợn sống về giết mổ làm thực phẩm.  

Thêm một điểm đáng quan tâm đó là việc tăng kỷ lục giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của thị trường quốc tế do tăng giá năng lượng mà chủ yếu là do hậu quả của xung đột giữa Nga – Ukraine đã gây khó khăn lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Trong khi đó, chi phí thức ăn chiếm tới 65-70% giá thành sản xuất trong chăn nuôi.

Cùng với những khó khăn trên, hiện nay, tổ chức sản xuất chăn nuôi lợn theo chuỗi ở nước ta còn yếu, thiếu bền vững, vẫn còn bị động trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Hiệu lực các cam kết trong hợp tác chăn nuôi (theo liên kết dọc và liên kết ngang) chưa cao; các mô hình tổ chức sản xuất chăn nuôi theo chuỗi giá trị còn ít. Trong khi đó, quy mô chăn nuôi nhỏ còn chiếm tỷ trọng cao, việc áp dụng quy trình sản xuất chuyên nghiệp, hiện đại còn hạn chế. Việc ứng phó với thông tin thị trường chưa tốt của người chăn nuôi là hạn chế lớn, gây nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất cũng như dự báo thị trường.

Ngoài ra, hiện nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó, có các hiệp định thương mại thế hệ mới như: CPTTP, EVFTA,... Cùng với việc, nước ta đã ký kết các hiệp định song phương với nhiều nước có nền chăn nuôi tiên tiến, do vậy, việc sản phẩm chăn nuôi nói chung và sản phẩm thịt lợn nói riêng của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn khi mở cửa cho thực phẩm nhập khẩu từ các nước như: Mỹ, Brazil, Nga, Ấn Độ và Đức. Các sản phẩm trong nước sẽ phải cạnh tranh mạnh với các sản phẩm nhập khẩu.

 Tăng tỷ lệ chọn giống, nâng cao năng suất sinh sản của đàn nái là một trong những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của ngành chăn nuôi lợn (Ảnh: B.T)

Giải pháp nào cho sự phát triển của ngành chăn nuôi lợn?

Theo Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045, định hướng phát triển chăn nuôi của nước ta đến năm 2030 với tổng đàn lợn có mặt thường xuyên quy mô từ 29 đến 30 triệu con, trong đó, đàn lợn nái từ 2,5-2,8 triệu con; đàn lợn được nuôi trang trại, công nghiệp chiếm trên 70%. Đồng thời, phát triển chăn nuôi lợn với các giống cao sản theo hướng trang trại công nghiệp, mở rộng quy mô đàn lợn chăn nuôi theo hướng hữu cơ, truyền thống với các giống lợn bản địa, lợn lai giữa giống cao sản và giống bản địa.

Nhằm đạt được các mục tiêu cũng như để phát triển bền vững ngành chăn nuôi lợn, theo Cục Chăn nuôi, trong thời gian tới, toàn ngành sẽ tập trung triển khai nhiều giải pháp cụ thể, mang tính tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi lợn tăng sức cạnh tranh. Theo đó, triển khai rà soát quy mô đàn lợn, đánh giá chất lượng, năng suất đàn lợn nái tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương để tổ chức chỉ đạo sản xuất phù hợp theo Chiến lược phát triển chăn nuôi và quy hoạch kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng vùng sinh thái. 

Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cho lợn bằng việc phối hợp hợp lý trong khẩu phần và kiểm soát tốt chất lượng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong sản xuất, nhập khẩu và bảo quản. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển mạnh việc áp dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học nhằm sản xuất nhanh các loại hóa chất, chế phẩm sinh học làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi lợn, thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu và sử dụng hiệu quả các nguyên phụ liệu có sẵn tại địa phương.

Một giải pháp không thể không kể đến, đó là đẩy mạnh công tác kiểm soát dịch bệnh, nhất là bệnh dịch tả lợn Châu Phi. Đồng thời, chỉ đạo triển khai áp dụng rộng rãi mô hình chăn nuôi lợn an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh.

Đặc biệt, theo Cục Chăn nuôi, toàn ngành sẽ chỉ đạo xây dựng ngành hàng thịt lợn theo các chuỗi liên kết. Phấn đấu đến năm 2025 Việt Nam có 10-12 chuỗi sản xuất liên kết lớn. Cùng với đó, hỗ trợ khuyến khích đầu tư phát triển chăn nuôi lợn theo chuỗi giá trị gắn với truy xuất nguồn gốc sản phẩm; xây dựng các tổ hợp chăn nuôi quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao với vai trò của doanh nghiệp làm trọng tâm trong liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tổ chức sản xuất ngành chăn nuôi theo chuỗi sản phẩm gắn với vùng sản xuất nguyên liệu an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học và xây dựng thương hiệu sản phẩm, an toàn thực phẩm. Hỗ trợ và phát triển chế biến và đa dạng hóa sản phẩm thịt lợn, tạo cơ chế và hành lang pháp lý để gắn kết các tác nhân trong chuỗi, giữa sản xuất với thị trường.

Ngoài ra, tăng cường chuyển đổi số trong ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Trong đó, khẩn trương triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chăn nuôi; xây dựng và áp dụng các phần mềm để đảm bảo cập nhật, quản lý, khai thác các dữ liệu chăn nuôi trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở phân tích dữ liệu tổng hợp có thể đưa ra nhận định, đánh giá sát thực tế và dự báo năng lực sản xuất và cung - cầu thị trường chăn nuôi, giúp điều tiết sản xuất của các doanh nghiệp và người chăn nuôi.

Về sản xuất giống, tăng cường năng lực cho các cơ sở nuôi giữ giống; quản lý và sản xuất giống theo tháp giống, tăng tỷ lệ chọn giống, nâng cao năng suất sinh sản của đàn nái hiện có. Đồng thời, tăng cường năng lực sản xuất giống tại chỗ để có con giống với giá thành hạ, an toàn dịch bệnh. Xây dựng và sử dụng các công thức lai giống phù hợp cho từng vùng sản xuất, phương thức chăn nuôi và phân khúc thị trường, bảo đảm có số lượng sản phẩm đủ lớn và đồng nhất về chất lượng đáp ứng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu./.

 
BT
274 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 1113
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 1113
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87219411