Việt Nam trước ngưỡng cửa kinh tế số

Tương lai kinh tế số (Ảnh minh họa. Nguồn: Bộ Công Thương)

Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2019 tập trung vào chủ đề “Việt Nam trước ngưỡng cửa nền kinh tế số”. Xu hướng số hóa nền kinh tế và các hoạt động xã hội, là nền tảng cho phép Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ, đang diễn tiến sâu sắc ở nhiều nước phát triển và diễn ra với tốc độ nhanh ở các nước đang phát triển.

Điều này đặt ra những thách thức mới trước khả năng phá vỡ cấu trúc ngành và thị trường, cùng sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị toàn cầu. Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó, nhưng sự chuẩn bị còn thiếu đầy đủ.

Báo cáo năm nay, bên cạnh việc phân tích, đánh giá tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam, đi sâu đánh giá và nhận định tương lai cho nền kinh tế số Việt Nam, đã chỉ ra cơ hội, thách thức đối với các doanh nghiệp và xã hội Việt Nam trước bối cảnh mới.

Báo cáo cũng nhấn mạnh rằng “Với dân số trẻ và đầy sức sống, mức đầu tư cao và vị trí nằm tại trung tâm của các quốc gia tăng trưởng cao châu Á, Việt Nam có cơ hội phát triển vượt bậc nhờ các công cụ số mới và sẵn có nếu quá trình chuyển đổi này được quản lý tốt”.

Báo cáo cũng chỉ rõ, Chính phủ cần tập trung ưu tiên đầu tư để tiến tới tương lai nền kinh tế số, trong đó, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới công nghệ thông tin và năng lượng, phát triển hơn nữa năng lực an ninh mạng và quản trị dữ liệu vững mạnh, nâng cao năng lực số và kỹ năng số cho lực lượng lao động, triển khai Chính phủ số và dữ liệu mở, khuyến khích ứng dụng lớn trong thống kê kinh tế nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

Các chuyên gia kinh tế đều cảnh báo Việt Nam phải cố gắng rất nhiều để đạt được tốc độ phát triển đáp ứng được xu hướng kinh tế số toàn cầu. “Mức độ ứng dụng số trên các chỉ tiêu ở các doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam còn rất thấp”, còn xa mới bắt kịp tốc độ toàn cầu. Cơ sở hạ tầng cho phát triển số ở Việt Nam còn thiếu và yếu, do đó, đã đến lúc Việt Nam phải thay đổi chiến lược hướng tới nền kinh tế số.

Hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam 2019

Hội thảo công bố Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2019 (Ảnh: HNV)

Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2019 đã đưa ra hai kịch bản dự báo về kinh tế trong nước năm 2019. Theo đó, kịch bản thứ nhất với tăng trưởng 6,56% và lạm phát là 4,21%. Kịch bản thứ hai với tăng trưởng 6,81% và lạm phát là 4,79%.

Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), kịch bản thứ nhất có thể xảy ra khi các điều kiện kinh tế thế giới kém thuận lợi do tác động từ sự gia tăng căng thẳng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đem đến những sức ép mới khiến Việt Nam đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ thị trường Trung Quốc, gia tăng cạnh tranh trên thị trường nội địa khi cả Mỹ và Trung Quốc có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam.

Ngoài ra, các nước khác cũng muốn chớp cơ hội từ cuộc chiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc, nên việc Việt Nam tăng xuất khẩu sang hai thị trường này không phải là điều dễ dàng.

Tuy nhiên, Viện trưởng Viện VEPR cho rằng, kịch bản thứ hai là khả thi hơn với mức 6,81%, đạt mục tiêu của Quốc hội. “Đây là kịch bản có nhiều khả năng xảy ra, nhờ dư địa động lực tăng trưởng của 2018, đi liền với những nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh và nâng cao năng suất của Chính phủ, thể hiện với mức tăng trưởng tương đối cao của các ngành chính gồm công nghiệp và dịch vụ”, ông Thành cho biết.

Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp trong nước đang nỗ lực chuyển mình trên lĩnh vực thương mại quốc tế. Điều đó được thể hiện trong quý 1/2019 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước cao hơn của khối doanh nghiệp FDI. Đây là điều khác biệt so với xu thế nhiều năm trước bởi doanh nghiệp FDI luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn doanh nghiệp trong nước.

Về mức giá chung, VEPR đánh giá, lạm phát cả năm 2019 được dự báo sẽ trở nên khó kiểm soát hơn và nhiều khả năng có thể lên tới 4-5%.

Trong kịch bản đầu tiên, với hoạt động kinh tế chậm hơn dự kiến, lạm phát chỉ đạt mức 4,21%. Trong kịch bản thứ hai, lạm phát cả năm ở mức 4,79%, cao hơn mục tiêu 4% của Quốc hội. Nguy cơ lạm phát theo kịch bản thứ hai có thể xảy ra nếu có sự cộng hưởng từ cả sức ép lạm phát gia tăng đến từ bên trong và bên ngoài.

Trong nước, các đợt điều chỉnh giá các dịch vụ công cũng như điều chỉnh tăng giá xăng dầu đã được thực hiện từ đầu năm 2019 sẽ gây áp lực lớn gia tăng lạm phát. Tính đến hết tháng 4/2019, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng khoảng 2,93% và đang trong xu hướng đi lên. Trong khi đó, mức gia tăng này mới chỉ phản ánh một phần rất nhỏ tác động từ những điều chỉnh giá của Chính phủ do có độ trễ của chúng.

Bên ngoài, giá dầu thô thế giới có thể tiếp tục tăng do những căng thẳng ở Trung Đông leo thang và nguồn cung thế giới được cắt giảm.

Để kiềm chế lạm phát, VEPR cho rằng các cơ quan điều hành sẽ cần phải tiếp tục theo sát diễn biến giá cả trong những tháng còn lại của năm. Ngân hàng Nhà nước cần thận trọng với việc điều tiết cung tiền, lãi suất và tín dụng trong thời gian tới nếu muốn duy trì mức lạm phát không vượt khỏi mức mục tiêu.

Trong ngắn hạn, Chính phủ cần tiếp tục kiểm soát chặt chi thường xuyên, minh bạch và tránh lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư công. Đối với lĩnh vực phân bổ ngân sách nhà nước, các văn bản pháp luật cần được xây dựng theo hướng đánh giá kết quả đầu ra và hiệu quả cuối cùng của chi tiêu công chứ không chỉ tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát đầu vào và kiểm soát quy trình, thủ tục.

Lê Anh