Cả nước có 7% dân số 2 tuổi trở lên (khoảng 6,2 triệu người) là người khuyết tật.
Ảnh minh họa (Nguồn: CPV).
Sáng 11/1, Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (UNICEF) công bố kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật tại Việt Nam 2016.
Đây là cuộc điều tra đầu tiên có quy mô lớn sử dụng tiêu chuẩn quốc tế xác định người khuyết tật để thu thập thông tin toàn diện về cuộc sống của người khuyết tật tại Việt Nam do Tổng cục Thống kê tiến hành trong 2 năm 2016-2017 với sự hỗ trợ của Unicef.
Mục đích của điều tra là đánh giá tình trạng khuyết tật của dân số và điều kiện kinh tế - xã hội nhằm cung cấp bằng chứng phục vụ lập kế hoạch, chính sách cải thiện cuộc sống của người khuyết tật (NKT) tại Việt Nam.
Theo kết quả điều tra, cả nước có hơn 7% dân số 2 tuổi trở lên (khoảng 6,2 triệu người) là người khuyết tật. Bên cạnh đó, có 13% dân số (gần 12 triệu người) sống chung trong hộ gia đình có NKT. Tỷ lệ này dự kiến sẽ tăng lên cùng với xu hướng già hóa dân số.
Điều tra cho thấy, những hộ gia đình có thành viên khuyết tật thường nghèo hơn, cơ hội việc làm cho NKT cũng thấp hơn những người không khuyết tật.
Cho dù NKT là đối tượng được hưởng chính sách bảo hiểm y tế và nghèo không phải là rào cản đối với việc tiếp cận các cơ sở y tế, nhưng rất ít NKT (2,3%) tiếp cận được với dịch vụ phục hồi chức năng khi bị ốm hoặc bị thương. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những bất bình đẳng về mức sống và tham gia xã hội đối với NKT.
Điều tra cũng chỉ ra rằng, cơ hội được đi học của trẻ em khuyết tật thấp hơn nhiều so với trẻ em không khuyết tật. Ở các cấp học cao hơn thì cơ hội đi học của trẻ khuyết tật càng thấp hơn. Đến cấp THPT chỉ có chưa đến 1/3 trẻ khuyết tật đi học đúng tuổi. Chỉ có 2% trường tiểu học và THCS có thiết kế phù hợp với học sinh khuyết tật và khoảng 1/7 số trường có một giáo viên được đào tạo về dạy trẻ khuyết tật.
Kết quả điều tra cũng cho thấy loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em là khuyết tật liên quan đến tâm lý xã hội. Điều này liên quan đến các vấn đề phát triển của trẻ em ở các giai đoạn khác nhau và những khuyết tật này có thể là rào cản lớn ngăn cản sự tham gia xã hội của trẻ khuyết tật./.
Minh Duyên