Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến lần thứ hai về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi).
Ngay sau kỳ họp, dưới sự chỉ đạo của UBTVQH, Thường trực Ủy ban tư pháp (UBTP) đã phối hợp cùng Cơ quan trình dự án và các cơ quan hữu quan tích cực nghiên cứu đầy đủ ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) để tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện một bước dự thảo Luật.
Đối tượng kê khai tài sản, thu nhập (Điều 37 dự thảo Luật do Chính phủ trình); thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập (Điều 32 dự thảo Luật do Chính phủ trình); xử lý tài sản, thu nhập mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc (Điều 59 dự thảo Luật do Chính phủ trình); phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước;… là những nội dung lớn được các thành viên UBTVQH tập trung thảo luận, làm rõ.
Liên quan đến quy định về đối tượng kê khai tài sản, thu nhập (Điều 37 dự thảo Luật do Chính phủ trình), có nhiều ý kiến tán thành tán thành với việc mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai như quy định của dự thảo Luật. Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị thu hẹp đối tượng có nghĩa vụ kê khai, tập trung vào các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao để phù hợp với năng lực của cơ quan kiểm soát và khả năng đầu tư nguồn lực cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập của các đối tượng này.
Về nội dung nêu trên, báo cáo một số vấn đề lớn về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) của UBTP cho rằng, hạn chế, vướng mắc trong kiểm soát tài sản, thu nhập thời gian qua có nguyên nhân từ những quy định chưa hợp lý của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành như: quy định mọi đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đều áp dụng chung một biện pháp kê khai, theo dõi biến động, xác minh tài sản, thu nhập mà không phân biệt các nhóm đối tượng cần phải có mức độ kiểm soát khác nhau; quy định về căn cứ tiến hành xác minh vừa hẹp, vừa mang tính tùy nghi; chưa có quy định để xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được hợp lý về nguồn gốc.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, dự thảo Luật đã phân biệt rõ các nhóm đối tượng khác nhau để áp dụng phương thức kê khai, xác minh tài sản, thu nhập phù hợp. Đối với người giữ chức vụ từ Giám đốc sở hoặc tương đương trở lên, người công tác tại các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao thì có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn; các đối tượng khác được kiểm soát ở mức độ đơn giản hơn với mục đích chủ yếu nhằm tạo cơ sở dữ liệu để so sánh, đối chiếu khi họ được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn hoặc khi có tố cáo, có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300 triệu đồng trở lên trong một năm.
Đồng thời, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được hợp lý về nguồn gốc. Các quy định này cơ bản đáp ứng yêu cầu tập trung kiểm soát tài sản, thu nhập của những người công tác tại các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao, đồng thời bảo đảm phù hợp với năng lực của cơ quan kiểm soát và khả năng đầu tư nguồn lực cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập, qua đó tăng cường hơn hiệu lực, hiệu quả của các biện pháp này trong phòng, chống tham nhũng.
“Do đó, tán thành ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, UBTP và Cơ quan trình dự án đề nghị cho giữ quy định về mở rộng phạm vi đối tượng có nghĩa vụ kê khai như Điều 37 của dự thảo Luật do Chính phủ trình để bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng về từng bước mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay”, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga phát biểu.
Về xử lý tài sản, thu nhập mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc (Điều 59 dự thảo Luật do Chính phủ trình), nhiều ý kiến tán thành với phương án là thu thuế thu nhập cá nhân và đề nghị, sau khi có Kết luận xác minh thì cần phân biệt: tài sản, thu nhập có dấu hiệu do phạm tội mà có thì chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra để xử lý; tài sản, thu nhập có dấu hiệu do vi phạm pháp luật mà có thì chuyển vụ việc sang cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính để xử lý; tài sản, thu nhập hợp pháp nhưng chưa nộp thuế thì chuyển vụ việc sang cơ quan quản lý thuế để xử lý theo quy định của pháp luật về thuế hiện hành.
Riêng tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc và cơ quan nhà nước cũng chưa chứng minh được do vi phạm pháp luật, do phạm tội mà có thì chuyển sang cơ quan quản lý thuế để thu thuế thu nhập cá nhân; đồng thời, sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân để bổ sung loại thu nhập này là thu nhập chịu thuế và thuế suất (Phương án thu thuế thu nhập cá nhân).
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Hà Ngọc Chiến cho rằng việc lựa chọn phương án đánh thuế thì phải làm rõ vấn đề về căn cứ thu thuế, không phải cứ không rõ nguồn gốc là đánh thuế.
Còn Chủ nhiệm Ủy Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội Phan Thanh Bình đề xuất cần có các quy định cụ thể về giao dịch, chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần minh bạch hóa về nguồn gốc tài sản.
Về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước, có ý kiến đề nghị giao Chính phủ quy định việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức xã hội mà không giao cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội ngoài nhà nước tự quy định và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng.
Có ý kiến đề nghị chỉ quy định áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện mà không áp dụng đối với mọi tổ chức xã hội.
Về vấn đề nêu trên, Báo cáo một số vấn đề lớn về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) cho biết dự thảo Luật do Chính phủ trình giao cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội căn cứ vào các quy định tương ứng của dự thảo Luật để tự ban hành một số quy định về phòng ngừa tham nhũng; giao cho cơ quan thanh tra căn cứ vào các quy định do doanh nghiệp, tổ chức xã hội tự ban hành để thanh tra, kiểm tra là chưa phù hợp với thực tiễn, khó bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức thực hiện.
Quy định này vừa có thể dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong việc tự xác định từng nội dung cụ thể để ban hành quy định; đồng thời cũng dẫn đến khó khăn cho cơ quan nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng ngừa tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
Do đó, tiếp thu ý kiến đóng góp, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng: Giao cho Chính phủ căn cứ vào quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và các luật khác có liên quan để quy định cụ thể việc áp dụng một số biện pháp về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động, kiểm soát xung đột lợi ích, trách nhiệm của người đứng đầu của công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước.
Đồng thời, đối với tổ chức xã hội thì dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng, chỉ quy định áp dụng đối với các tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân (thay cụm từ “thường xuyên huy động” bằng cụm từ “có huy động” để bảo đảm rõ ràng trong thực hiện).
Nguyễn Hoàng