TRỰC TIẾP: Quốc hội tiếp tục thảo luận về KT-XH và ngân sách nhà nước 

(Chinhphu.vn) – Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 7, ngày 30-31/5, Quốc hội thảo luận đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2018; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2019. Quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017.

Toàn văn nội dung thảo luận chiều 30/5     

Trong quá trình Quốc hội thảo luận, thành viên Chính phủ sẽ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. 

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tường thuật trực tiếp phiên thảo luận, phục vụ đồng bào và cử tri theo dõi. 

Tiếp tục cập nhật.....

Bức tranh đẹp, toàn diện

Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, tại phiên thảo luận, các đại biểu cơ bản tán thành với đánh giá bổ sung kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, kết quả phát triển kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2019 với nhiều kết quả tích cực, thể hiện qua các chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra. 

Các đại biểu bày tỏ hài lòng và ấn tượng với những kết quả đã đạt được, cho rằng kinh tế, xã hội đất nước là một "bức tranh đẹp, toàn diện" đã thể hiện sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo điều hành sâu sát, quyết liệt của Chính phủ và các bộ ngành, địa phương. 

Đồng thời các đại biểu cũng thẳng thắn nêu lên những tồn tại, hạn chế, phân tích, chỉ rõ những nguyên nhân qua đó đề xuất các giải pháp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra. 

Ban hành chính sách cần bố trí nguồn lực thực hiện

 

Phát biểu thảo luận sáng 31/5, đại biểu Leo Thị Lịch (Bắc Giang) cho rằng: Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và cả xã hội đã dành sự quan tâm sâu sắc chăm lo phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số, miền núi, đời sống vật chất tinh thần của đồng bào đã được nâng lên rõ rệt.

 

Theo đại biểu, các chính sách này đã góp phần đáng kể cải thiện cơ sở hạ tầng ngày càng được hoàn thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm, an sinh xã hội được bảo đảm, chính sách chính trị được ổn định, đồng bào cũng nỗ lực thực hiện tốt các chính sách góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. 

Dẫn số liệu từ kết quả giám sát nêu trong Nghị quyết số 112 của Quốc hội, đại biểu cho biết: Việc giao đất, giao rừng tỷ lệ thấp chỉ đạt 11,5%; việc cấp giấy chứng nhận đất chỉ đạt 10,7%; nhiều diện tích đất ở, đất sản xuất, đất rừng ở vùng nông thôn, buôn sóc, bản làng nơi đồng bào sinh sống chưa được quy hoạch trong khi nơi này lại là nơi có đồng bào thuộc nhóm nghèo và nghèo nhất cả nước, kinh tế chậm phát triển nhất. 

Theo đại biểu, “chính sách ban hành với mục tiêu thì lớn, nhưng thực tế chính sách trực tiếp đến người dân thì nhỏ giọt, như người dân thường nói đó “đầu voi, đuôi chuột”, trên thực tế vẫn còn một số chính sách đã hơn 3 năm ban hành nhưng chưa có nguồn lực để triển khai thực hiện. “Đồng bào chờ đợi, mong mỏi không khác gì một loại quả đẹp chỉ để ngắm không ăn được” – đại biểu bày tỏ và đề xuất 3 vấn đề:

 

Một là, ngoài báo cáo đánh giá chung, hàng năm Chính phủ cần có Báo cáo chuyên đề về đánh giá thực hiện các chính sách đầu tư phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số, miền núi để các đại biểu Quốc hội phân tích, đánh giá sâu hơn các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và tiến độ thực hiện các chính sách vùng dân tộc thiểu số.

 

Hai là, Chính phủ tiếp tục nghiên cứu có chính sách đột phá cho cải tạo đất, tái sinh rừng tự nhiên, giải quyết các vướng mắc của đất nông, lâm trường, tăng cường giao đất, giao khoán rừng để đồng bào đủ tư liệu sản xuất, tạo sinh kế ổn định, bám đất giữ rừng, bảo vệ vững chắc vùng phên dậu chiến lược quốc phòng, biên giới quốc gia.

 

Ba là, Chính phủ sau khi ban hành các chính sách thì nguồn lực cần được bố trí bảo đảm tiến độ thực thi chính sách kịp thời để triển khai thực hiện cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số.

 

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu trước Quốc hội. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát là nhiệm vụ hàng đầu

 

Tại phiên thảo luận, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã phát biểu để nói thêm về việc kiểm soát lạm phát, điều hành giá cả, trong đó có giá điện.

 

Phó Thủ tướng khẳng định “Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô và lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế là chủ trương và nhiệm vụ hàng đầu của Chính phủ”.

 

Ba năm qua, Chính phủ đã liên tiếp kiểm soát lạm phát tăng dưới 4%. Trong năm 2019, Quốc hội đề ra mục tiêu kiểm soát lạm phát “khoảng 4%”, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ đặt mục tiêu tích cực hơn là “dưới 4%”. Ban Chỉ đạo giá của Chính phủ sau khi tính toán các yếu tố ở trong nước và tình hình giá cả thế giới trong dài hạn đã lựa chọn mục tiêu điều hành lạm phát năm nay từ 3,3- 3,9%.

 

Thực tế diễn biến CPI trong 5 tháng đầu năm 2019 theo đúng theo kịch bản được Chính phủ, Ban Chỉ đạo điều hành giá đề ra ngay từ đầu năm nhằm hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát theo chỉ tiêu Quốc hội đã giao. Cụ thể, CPI tháng 1/2018 tăng 0,1%, CPI tháng 2/2019 tăng 0,8%, CPI tháng 3/2019 giảm 0,21%, CPI tháng 4/2019 tăng 0,31%, CPI tháng 5 tăng 0,49%.

 

Bình quân 5 tháng đầu năm tăng CPI 2,74% so với cùng kỳ năm 2018 là mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua (5 tháng đầu năm 2017 tăng 4,47%, năm 2018 tăng 3,01%).

 

Công khai minh bạch các chi phí đầu vào

 

Phó Thủ tướng đồng tình với ý kiến của đại biểu Nguyễn Thị Yến và các đại biểu Quốc hội khác về các giải pháp điều hành lạm phát từ nay tới cuối năm. Trong đó, tập trung các nhiệm vụ sau: Điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ, chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành giữ ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá, giữ ổn định lạm phát cơ bản trong khoảng 1,8%.

 

Chủ động theo dõi sát diễn biến cung cầu, thị trường, giá cả để có giải pháp bình ổn thị trường phù hợp, nhất là đối với một số mặt hàng thiết yếu hiện và biến động khó lường về cung cầu và chịu tác động lớn từ giá thế giới như thịt lợn, lương thực, xăng dầu, LPG; mặt hàng đang có nhu cầu cao như vật liệu xây dựng.

 

Tiếp tục đánh giá tác động gián tiếp của việc điều chỉnh giá điện. Điều hành giá xăng dầu trong nước phù hợp với diễn biến giá thế giới kết hợp với trích lập và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu nhằm bình ổn giá trong nước.

 

Tăng cường công tác dự báo, tính toán tác động của việc điều chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu đến chỉ số giá tiêu dùng. Việc điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý cần được thực hiện với  mức độ và thời điểm phù hợp bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm theo các kịch bản điều hành giá đã đề ra, hạn chế tác động chi phí đẩy đến sản xuất, tiêu dùng và đời sống của người dân

 

Chính phủ sẽ công khai minh bạch các chi phí đầu vào của hàng hóa do Nhà nước quản lý, tạo niềm tin cho người dân, doanh nghiệp và xử lý nghiêm các sai phạm trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Chính phủ và kiểm soát lạm phát kỳ vọng.

 

Điều hành giá điện phải bảo đảm 2 mục tiêu

 

Về giá điện, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết điện là vật tư chiến lược và an ninh an toàn điện là một cân đối lớn và trọng yếu của nền kinh tế. Để tăng 1% GDP thì phải tăng ít nhất 1,5% sản lượng điện. Trong 3 năm qua mức tăng sản lượng điện bình quân là 10,15% và năm 2019 trên cơ sở kịch bản GDP tăng 6,8% thì điện ít nhất phải tăng 11,23%. Vì vậy, điều hành giá điện phải đạt 2 mục tiêu, một là kiểm soát được lạm phát và có giá hợp lý để kêu gọi các thành phần kinh tế đầu tư cho ngành điện.

 

Theo quy định của Luật Điện lực và Luật Quản lý giá thì điện là mặt hàng điều tiết theo thị trường nhưng có quản lý của nhà nước và khung giá, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ do Thủ tướng Chính phủ quy định.

 

Việc điều chỉnh giá điện trên cơ sở rà soát cơ cấu và tổng nguồn điện kể cả thuỷ điện, điện than, điện dầu, tuốc bin khí, điện gió, điện mặt trời thì tổng đầu vào dự kiến tăng lên khoảng 20.032 tỷ đồng, trong đó có điều chỉnh giá than cho điện vào 2 đợt (đợt 1 từ 5/1/2019 và đợt 2 là 20/3/2019) với 5.412 tỷ đồng (Chi phí đầu vào của than cũng tăng khi độ âm khai thác âm 300 m so với mặt nước biển).

 

Thứ hai là việc điều chỉnh giá than trộn nội địa và nhập khẩu là 1.920 tỷ đồng. Thứ ba là điều chỉnh tăng giá khí trong bao tiêu theo giá thị trường theo Nghị quyết của Quốc hội từ năm 2014 mà bây giờ Chính phủ mới thực hiện được là 5.852 tỷ đồng và điều chỉnh giá khí trên bao tiêu theo giá thị trường là 600 tỷ đồng và chênh lệch tỷ giá là hơn 5.042 tỷ đồng.

 

Để bảo đảm được bù đắp đó và có mức lợi nhuận tối thiểu 3% cho ngành điện thì EVN và Bộ Công Thương đề xuất 3 kịch bản điều chỉnh giá điện là 7,31%,  8,36% và 9,26%. Trên cơ sở cân nhắc nhiều mặt thì Thường trực Chính phủ đã họp, thảo luận rất kỹ với các bộ, ngành, các Tập đoàn, Tổng công ty và kết luận sẽ chọn phương án 8,36% và điều chỉnh trong khoảng 15-30/3/2019.

 

“Lý do chọn tháng 3 để tăng giá điện là CPI thường giảm sau khi đã tăng mạnh trong tháng 1 và 2. Thực tế có 10 lần điều chỉnh giá điện thì 4 lần lựa chọn điều chỉnh vào tháng 3. Nếu điều chỉnh muộn hơn, vào giữa năm hoặc tháng 7 thì tỷ lệ điều chỉnh phải cao hơn để bù đắp các khoản trên”, Phó Thủ tướng nói.

 

Chưa phát hiện sai phạm trong cách tính, thu tiền điện của EVN

 

Về biểu giá điện và cách tính giá điện, Phó Thủ tướng cho biết Việt Nam và thế giới hay có cách tính giá điện theo biểu giá bậc thang. Còn về nguyên nhân hóa đơn tiền điện tăng cao trong tháng 4/2019, theo các đoàn kiểm tra liên ngành của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiệp hội Người tiêu dùng và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội sơ bộ đánh giá do việc điều chỉnh giá điện tăng, số ngày ghi công tơ tháng 4 nhiều hơn tháng 3 là 3 ngày, nhu cầu sử dụng điện tăng cao do thời tiết nắng nóng bất thường làm tổng điện năng thương phẩm trong tháng 4 tăng 10,26% so với cùng kỳ năm 2018 và 14,23% so với tháng 3 năm 2019.

 

"Qua kiểm tra sơ bộ của đoàn liên ngành trên thì cách tính và thu tiền điện của EVN chưa phát hiện ra sai phạm gì”, Phó Thủ tướng cho biết.

 

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo điều hành giá luôn chỉ đạo ngành điện, EVN công khai, minh bạch chi phí đầu vào, tăng cường năng lực quản trị, tiết giảm chi phí, giảm tổn thất điện năng. Năm 2017, ngành điện đã tiết giảm được 2.248 tỷ đồng và năm 2018 tiết giảm được 2.326 tỷ. Hao hụt điện năng năm 2018 còn 6,83%, giảm 0,37% so với mục tiêu đến 2020 của Chính phủ và Chính phủ còn chỉ đạo EVN tiết giảm 7% chi phí thường xuyên hàng năm.

 

Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, ngành tiếp tục hoàn thiện văn bản pháp lý, mở rộng phạm vi thị trường bán buôn điện, rà soát, thiết kế thị trường bán lẻ điện phù hợp với điều kiện Việt Nam, hoàn thiện khung pháp lý hiện hành, thí điểm thị trường bán lẻ điện cạnh tranh vào năm 2021.

 

Sớm sửa đổi biểu giá điện

 

Phó Thủ tướng cho biết, trên cơ sở đề xuất của chuyên gia, người dân, doanh nghiệp, Chính phủ đã giao EVN sớm trình Chính phủ sửa biểu giá điện hợp lý hơn và bảo vệ người có thu nhập thấp và phù hợp với nhu cầu sử dụng điện tăng cao của người dân, bảo đảm hài hoà lợi ích các hộ tiêu dùng điện.

 

Các bộ, ngành và EVN làm tốt hơn công tác cung cấp thông tin, truyền thông, bảo đảm niềm tin của nhân dân với điều hành của Chính phủ.

 

Thanh tra Chính phủ sớm công bố kết luận thanh tra và xử lý nghiêm sai phạm nếu có của EVN và các cơ quan liên quan.

 

Chính phủ cũng đề xuất Kiểm toán Nhà nước đưa vào kế hoạch kiểm toán tài chính và kiểm toán chuyên đề giá điện của EVN trong năm 2019.

Sáp nhập huyện, xã – nhiều vướng mắc

 

Tham luận về vấn đề sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện, xã, các thôn xóm, đại biểu Trần Tất Thế (Hà Nam) cho biết: Trong hơn 30 năm trở lại đây, từ năm 1986 đến năm 2016 số đơn vị hành chính cấp huyện từ 431 đã tăng lên 713; đơn vị hành chính cấp xã tăng 9.657 lên 11.162, bình quân mỗi năm tăng khoảng 50 xã và con số này giữ nguyên cho đến nay. Vì vậy, chủ trương xác nhập đơn vị hành chính, cải cách bộ máy, tiết kiệm ngân sách để đầu tư phát triển là một chủ trương đúng đắn, mang tính đột phá theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6.

 

Đại biểu chia sẻ, qua tiếp xúc cử tri và ý kiến của nhân dân, đại đa số nhân dân đều đồng tình với chủ trương này. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc, bất cập như: Khi sáp nhập quy mô, tổ chức Đảng và dân số tăng, nhưng chế độ phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách vẫn giữ nguyên như trước, đây là không hợp lý.

 

Theo đại biểu, các cấp có thẩm quyền nên phân loại xóm theo quy mô dân số để áp dụng chế độ phụ cấp phù hợp. Bên cạnh đó, quy mô dân số tăng, các thiết chế văn hóa cũ không còn phù hợp, việc tổ chức sinh hoạt cộng đồng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, rất cần có cơ chế để phát huy hiệu quả cơ sở vật chất của các xóm trước khi sáp nhập. Với các xóm xa trung tâm xã, đại biểu đề nghị xã cho đấu giá đất nhà văn hóa cũ để có kinh phí xây dựng nhà văn hóa mới phù hợp hơn.

 

Tham luận vấn đề này, đại biểu Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh) cho rằng công việc này thực sự cần có quyết tâm chính trị cao và tạo sự đồng thuận thống nhất trong hệ thống chính trị và sự ủng hộ của nhân dân.

 

Đại biểu đề nghị Chính phủ, Quốc hội, Bộ Nội vụ và các cơ quan cần kịp thời ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể để tạo hành lang pháp lý và cơ chế để các địa phương thuận lợi cho việc triển khai thực hiện sao cho việc sắp xếp lại phải căn bản, cách làm phù hợp, đặc biệt nhiều nơi có điều kiện thuận lợi làm trước và phù hợp với quy hoạch tổng thể, yêu cầu phát triển, đảm bảo ổn định chính trị xã hội. Ngoài các chỉ tiêu cần đặc biệt quan tâm các tiêu chí phù hợp với phong tục tập quán và điều kiện địa lý của cộng đồng.

 

Cần giải pháp cụ thể để xử lý mối quan hệ sau sáp nhập

 

Đại biểu Cao Đình Thưởng (Phú Thọ) khẳng định đây là chủ trương đúng, hợp lý và cần thiết nhằm giảm đầu mối, tinh giảm biên chế kể cả chuyên trách và không chuyên trách.

 

Tuy nhiên, đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể của Chính phủ trong khi còn nhiều vướng mắc nảy sinh như việc kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị, vấn đề sắp xếp lại cán bộ trong đội ngũ công chức và cán bộ không chuyên trách của tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các hội đoàn thể, việc xử lý cán bộ dôi dư và chế độ chính sách đối với họ.

 

Ngoài ra, còn nhiều vấn đề liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, giấy tờ công dân và các nguồn lực khác để giải quyết các vấn đề phát sinh khi sáp nhập lại các đơn vị hành chính, nhất là nguồn lực tài chính và giải quyết chính sách đối với cán bộ.

 

Đặc biệt, đại biểu cho rằng cần có giải pháp cụ thể để xử lý mối quan hệ sau sáp nhập khi các đơn vị được sáp nhập có những điều khác biệt. Ví dụ như khi sáp nhập 3 xã hợp nhất thành 1 xã. Đại biểu nêu giả thiết, khi hợp nhất 3 xã thành 1, trong đó có 1 xã nông thôn mới, 1 xã trung bình, 1 xã đang hưởng chính sách 135 thì thực hiện chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ và người dân nơi đây như thế nào.

 

Theo ông, điều này đang rất cần phải có văn bản hướng dẫn và quy định thống nhất cho các địa phương trong cả nước. Nếu không giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tâm lý người dân, dễ tạo bức xúc, thậm chí thành điểm nóng.

 

Vì vậy, đại biểu đề nghị cơ quan có thẩm quyền sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể giải quyết những vướng mắc nói trên, mặt khác cần có văn bản hướng dẫn việc sắp xếp các sở, ngành, phòng, ban ở cấp tỉnh, cấp huyện để các địa phương sớm thực hiện. Trước mắt, đảm bảo nhân sự cho Đại hội Đảng và bầu Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp sắp diễn ra trong năm 2020 - 2021.

 

Bộ trưởng Nội  vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu giải trình trước Quốc hội. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

 

Không sắp xếp bằng mọi giá

 

Giải đáp những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW (một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả), Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 37/NQ-TW và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 653 /2019/UBTVQH14.

 

Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP để quy định một số nội dung kế hoạch về sắp xếp tổ chức bộ máy của các cơ quan hành chính cấp huyện, cấp xã, Bộ Nội vụ ban hành văn bản để hướng dẫn mẫu hồ sơ đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.

 

Đến nay, cơ bản các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện các nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đã đầy đủ. 

 

Bộ trưởng cho biết, mục tiêu của sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã là nhằm tổ chức hợp lý lại các đơn vị cho phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước, đơn vị hành chính và bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, góp phần phát huy mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, tinh giản biên chế và thực hiện chính sách tiền lương mới vào năm 2021. 

 

Quan điểm của việc sắp xếp là phải đảm bảo tính tổng thể, đồng bộ và thực hiện từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn cần có trọng tâm, trọng điểm, cách làm phù hợp, chặt chẽ, thận trọng, hiệu quả. Những nơi đã rõ, thuận lợi làm trước và không phải sắp xếp bằng mọi giá các đơn vị hành chính mà không đảm bảo yếu tố thuận lợi và gây xáo trộn lớn, làm mất ổn định về chính trị - xã hội. 

 

Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho hay, năm 2019 vừa rà soát các quy định pháp luật có liên quan, vừa thực hiện cơ bản việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã chưa đạt 50% cả hai tiêu chí về quy mô dân số và diện tích tự nhiên theo tiêu chí của Nghị quyết 1211/2016/UBTVQH13 về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính.

 

Ngoài ra, khuyến khích các địa phương tiếp tục sắp xếp các đơn vị hành chính khác chưa đạt tiêu chuẩn theo quy định và đến năm 2021 sẽ tiến hành tổng kết việc sắp xếp trong giai đoạn 2019 – 2021, xây dựng kế hoạch, lộ trình để tiếp tục sắp xếp trong giai đoạn đến năm 2020 và 2030.

 

Để triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nội vụ đã phối hợp các cơ quan liên quan tổ chức tập huấn, tọa đàm triển khai.

 

Bộ trưởng cho biết, lộ trình sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thực hiện trong giai đoạn 2019 – 2020, tuy nhiên, để sớm ổn định cho các đơn vị cấp huyện, cấp xã tổ chức Đại hội Đảng các cấp vào năm 2020, nhiệm kỳ 2020 – 2025, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ và các bộ, ngành khẩn trương xây dựng kế hoạch để sắp xếp, cơ bản hoàn thành trong năm 2019.

 

Qua rà soát số liệu báo cáo của các địa phương, trong đợt này chỉ sắp xếp 16 đơn vị hành chính cấp huyện và 631 đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% cả hai tiêu chí về diện tích và quy mô dân số. 

 

“Qua xem xét phương án tổng thể chung của các địa phương đã gửi về Bộ Nội vụ cho thấy, các tỉnh đã ráo riết chỉ đạo khẩn trương để lập các đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; trong đó, ngoài diện cần phải sắp xếp đợt này, nhiều tỉnh khuyến khích việc sắp xếp thêm các đơn vị ngoài quy định. Ví dụ, tỉnh Hòa Bình có thêm 24 đơn vị hành chính cấp xã, tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh có thêm 10 đơn vị hành chính cấp xã thuộc diện khuyến khích. Nhiều địa phương đã tiến hành sắp xếp cả 3 đơn vị cấp xã thành một đơn vị cấp xã như Hà Tĩnh, Thái Bình...”, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân nói.

 

Ông thông tin, sau khi sắp xếp, số đơn vị hành chính của Cao Bằng đã giảm 3/13 đơn vị hành chính cấp huyện và giảm 4/199 đơn vị hành chính cấp xã. Tỉnh Hòa Bình giảm 1 đơn vị hành chính cấp huyện và giảm 59 đơn vị hành chính cấp xã. Hà Tĩnh giảm 47 đơn vị hành chính cấp xã và Thanh Hóa giảm 76 đơn vị hành chính cấp xã. Đây là những đơn vị, địa phương có nhiều đơn vị sắp xếp mà đề án cơ bản đến nay chuẩn bị tốt.

 

Sẽ ban hành chính sách xử lý cán bộ dôi dư

 

Đề cập về giải pháp để thực hiện tốt việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong thời gian tới, Bộ trưởng Nội vụ cho biết, Bộ thường xuyên phối hợp với các bộ, ngành Trung ương như Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và Tổng cục Thống kê và các địa phương để rà soát, xây dựng các phương án cụ thể nhằm giúp các địa phương tổ chức tốt đề án.

 

Đến nay, theo phản ánh của các địa phương, vấn đề khó khăn, vướng mắc nhất trong việc sắp xếp và tổ chức các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã là số lượng lớn cán bộ, công chức dôi dư, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

 

Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 và Nghị quyết số 32/NQ-CP đã đề ra một số giải pháp để giải quyết việc cán bộ, công chức, viên chức dôi dư sau khi sắp xếp. Tuy nhiên, các giải pháp này chưa thật sự hấp dẫn để giải quyết chế độ. Do đó, thời gian tới, Bộ Nội vụ sẽ tham mưu, phối hợp với các cơ quan của Chính phủ để ban hành một số chính sách giải quyết theo nhu cầu thực tiễn của địa phương đã được sắp xếp. 

 

Mặt khác, để đảm bảo cho việc sắp xếp đồng bộ các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã sắp tới, Bộ Nội vụ đề nghị Ban Tổ chức Trung ương và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, MTTQ cần có hướng dẫn trong việc tổ chức sắp xếp các đơn vị tương ứng cho phù hợp với đề án sắp xếp chung cấp huyện và cấp xã.

 

Sắp xếp cơ quan cấp tỉnh, huyện theo 4 nhóm

 

(Chinhphu.vn) – Giải trình tại phiên thảo luận (kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV) về kinh tế - xã hội, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết Chính phủ sẽ thảo luận, cho ý kiến về sắp xếp cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5, diễn ra vào ngày 31/5.

 

Giải trình thêm về việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết, để thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội (về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả) và Kết luận số 34-KL/TW của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Bộ Nội vụ đã tham mưu cho Chính phủ ban hành hai nghị định mới thay thế Nghị định 24/2014/NĐ-CP (quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh) và Nghị định 37/2014/NĐ-CP (quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện). 

 

“Theo nguyên tắc, Chính phủ chỉ quy định khung cơ quan chuyên môn của cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó số lượng cơ quan chuyên môn sau khi sắp xếp không được nhiều hơn số lượng hiện có”, Bộ trưởng khẳng định. 

 

Theo ông, việc sắp xếp này sẽ chia theo 4 nhóm, gồm: Nhóm thứ nhất là số cơ quan thống nhất quản lý chung trong cả nước. Nhóm hai gồm nhóm tổ chức, sắp xếp lại cho phù hợp. Nhóm ba là nhóm thực hiện thí điểm theo tinh thần Kết luận số 34-KL/TW của Bộ Chính trị. Nhóm thứ tư là nhóm đặc thù.

 

Về quy định khung biên chế tối thiểu và số lượng cấp phó tối đa để thành lập các tổ chức bên trong của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện, theo Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân, sẽ giao cho HĐND tỉnh quyết định, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và Kết luận số 34-KL/TW.

 

Ông cũng cho hay, đây là vấn đề mới, phức tạp trong việc tổ chức lại cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và cấp huyện thời gian tới, được xã hội rất quan tâm, do đó, lãnh đạo Chính phủ đã tổ chức nhiều cuộc họp để tạo sự đồng thuận, thống nhất cao giữa các cơ quan Trung ương và địa phương. 

 

“Chính phủ sẽ thảo luận, cho ý kiến về sắp xếp cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5, diễn ra vào ngày 31/5.

 

Đến nay, đã có 4 tỉnh thí điểm sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh gồm Bạc Liêu, Bắc Ninh, Hà Giang, Lào Cai, giảm được 5 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.

 

Đối với cấp huyện, đã có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí điểm sắp xếp cơ quan chuyên môn cấp huyện, đã giảm được 185 phòng chuyên môn”, Bộ trưởng Nội vụ nói.

Đại biểu Trần Quang Chiểu đề nghị sớm có giải pháp huy động vàng, ngoại tệ trong dân.

 

Sớm có giải pháp huy động ngoại tệ, vàng trong dân

 

Góp ý về điều hành chính sách tiền tệ, đại biểu Trần Quang Chiểu (Nam Định) cho rằng, trong những năm gần đây, điều hành chính sách tiền tệ của Chính phủ đã có nhiều năng động, linh hoạt, tôn trọng quy luật thị trường, tương đối ăn khớp giữa chính sách tài khóa với một số chính sách khác.

 

Trong thời gian tới, điều hành chính sách tiền tệ, theo đại biểu Trần Quang Chiểu cần tập trung vào 3 vấn đề: 

 

Một là, sớm và nhanh chóng giảm lãi suất cho vay, bởi lãi suất của chúng ta hiện nay còn cao trong khi dư địa giảm lãi suất vẫn còn. 

 

Hai là, Chính phủ sớm có giải pháp huy động nguồn ngoại tệ, vàng trong dân. 

 

Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần xem lại một số quy định như hạn chế giải ngân cho công ty tài chính hay người tiêu dùng chỉ khai báo lại mặc dù đã có thông tin đích danh tại tài khoản ngân hàng… Theo đại biểu, “những nội dung này nếu được ban hành sẽ cản trở việc thực hiện kinh tế số và đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt”.

Đại biểu Vũ Thị Nguyệt: Cơ chế tự chủ y tế là chủ trương hết sức đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển.

 

Cần ban hành văn bản chi tiết, đồng bộ về tự chủ y tế

 

Góp ý việc thực hiện cơ chế tự chủ trong lĩnh vực y tế, đại biểu Vũ Thị Nguyệt (Hưng Yên) cho rằng, đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước.

 

Cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cùng với việc thực hiện thông tuyến về khám chữa bệnh đã thay đổi nhận thức của nhiều đơn vị, từng bước phát huy tính năng động của từng đơn vị, không trông chờ, ỷ lại vào ngân sách nhà nước mà chủ động bằng nhiều biện pháp khác nhau như đổi mới phong cách thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người dân, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. 

 

Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn nảy sinh, bất cập từ chính sách cho tới thực tế. Nhấn mạnh điều này, đại biểu cho rằng, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, đồng bộ để thực hiện cơ chế tự chủ đối với ngành y tế.

 

Cụ thể, gần đây nhất là ngày 19/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 33 về thí điểm tự chủ toàn diện đối với 4 bệnh viện thuộc Bộ Y tế. Tuy nhiên, đối với các bệnh viện còn lại chưa có văn bản hướng dẫn nào. Điều này dẫn đến các đơn vị y tế còn lúng túng, chưa thống nhất được cách hiểu, cách làm, mỗi đơn vị làm một kiểu dẫn đến sai sót trong quá trình thực hiện. 

 

Bên cạnh đó, cơ chế về phân cấp, phân quyền còn nhiều hạn chế, ví như được giao tự chủ về tài chính nhưng chưa được giao tự chủ về bộ máy, tổ chức, tự chủ về cơ chế thu, tuyển dụng và sử dụng nhân lực, đầu tư mua sắm trang thiết bị…

 

Đây là những vướng mắc cần sớm tháo gỡ để việc thực hiện cơ chế tự chủ đạt hiệu quả thiết thực.

Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh: Phải có kế hoạch tổng thể gắn kết giáo dục, đào tạo với lao động, việc làm.

 

Quy hoạch mạng lưới giáo dục gắn với thị trường

 

Góp ý về vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh (Vĩnh Long) đề nghị, Chính phủ phải quan tâm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, xây dựng kế hoạch tổng thể gắn kết giữa giáo dục, đào tạo với lao động, việc làm, nhằm phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện Việt Nam, với cơ cấu, trình độ hợp lý, phù hợp với bối cảnh hội nhập,... 

 

Cũng theo đại biểu, phải kiểm soát chất lượng đào tạo đại học, đặc biệt là chất lượng đầu vào, kiến thức giáo dục đại học trang bị cho sinh viên phải gắn với khả năng vận dụng vào sản xuất, kinh doanh, cũng như với đời sống xã hội.

 

Bên cạnh đó, cần tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước với nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và gửi học sinh giỏi đi đào tạo các trường đại học, dạy nghề có trình độ, đẳng cấp quốc tế, khu vực.

 

Đồng thời cần quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và từng địa phương. Xây dựng cơ chế chính sách thực hiện tốt công tác phân luồng, gắn với đào tạo nghề, phát triển kỹ năng nghề trong học sinh sau THCS và THPT.

 

Chú trọng đến chính sách hỗ trợ các trường nghề nhận học sinh tốt nghiệp THCS, và mức lương khởi điểm cho em học viên tốt nghiệp để thực hiện phân luồng hiệu quả, bên cạnh cơ chế, chính sách huy động nguồn lực xã hội hóa. 

Đại biểu Võ Thị Như Hoa đề nghị làm rõ động cơ của bộ ngành chậm ban hành văn bản.

 

Làm rõ động cơ chậm ban hành văn bản

 

Ghi nhận những kết quả đạt được, đồng thời chỉ rõ những tồn tại, trong đó có tình trạng nợ đọng ban hành văn bản hướng dẫn làm cho luật không thể đi vào cuộc sống, đại biểu Võ Thị Như Hoa (Đà Nẵng) đề nghị, Chính phủ cần có đánh giá, phân tích cụ thể công tác hoàn thiện thể chế xây dựng pháp luật hàng năm.

 

Theo đó, cần làm rõ bộ, ngành nào ban hành chậm văn bản hướng dẫn, chậm rà soát văn bản trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung.

 

“Cần làm rõ động cơ của bộ, ngành chậm ban hành, chậm kiểm tra rà soát để trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung có nhằm phục vụ lợi ích cục bộ, ngành mình, hay có “lợi ích nhóm” hay không để có chế tài xử lý nghiêm khắc. 

 

Quốc hội thảo luận KT-XH và ngân sách nhà nước. Ảnh VGP/Nhật Bắc

Tránh để vài bộ phận nhỏ làm "bẩn bức tranh toàn cảnh"

Mở đầu phiên thảo luận sáng 30/5, đại biểu Nguyễn Lân Hiếu (An Giang) bày tỏ vui mừng trước những kết quả về kinh tế, xã hội đã đạt được thời gian qua. Tuy nhiên đại biểu cho rằng nhiều cử tri vẫn hoài nghi với những kết quả đã đạt được bởi niềm tin của họ bị lung lay nên những cái tốt, tích cực không được tiếp nhận như thông thường.

Theo đại biểu, niềm tin người dân bị ảnh hưởng vì thực tế hàng ngày diễn ra xung quanh họ. Chúng ta có thể có nhiều chính sách vĩ mô tốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng bức xúc hàng ngày của người dân chưa được giải quyết hợp lý, nhanh chóng như: Vấn đề BOT giao thông; điều hành giá điện, giá xăng dầu; gian lận thi cử, đánh giá kết quả giáo dục... 

Đại biểu cho rằng đây là những vấn đề cần xem xét, bàn thảo kỹ lưỡng để có phương án giải quyết thấu đáo với tinh thần “dù phác đồ đúng nhưng tình hình người bệnh không tốt lên thì phải xem xét lại. Nhiều khi trên lý thuyết là đúng nhưng triển khai nhiều khi sai ở mắt xích nào đấy. Lúc này cần xem xét, không bảo thủ, duy ý chí, che giấu sai lầm”, tránh để những cố gắng của cả hệ thống lại "bị vài bộ phận nhỏ làm bẩn bức tranh toàn cảnh”.

Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu: Kết quả KTXH đạt được rất phấn khởi, song nhiều cử tri vẫn hoài nghi bởi niềm tin của họ bị lung lay trước nhiều bức xúc chậm được giải quyết. Ảnh VGP/Nhật Bắc

Đại biểu Lê Công Nhường (Bình Định) tham luận về vấn đề nâng cao chất lượng xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dẫn những bất cập trong việc ban hành thông tư về tiêu chuẩn nước mắm, thức ăn chăn nuôi,... bị dư luận phản ứng thời gian qua, đại biểu nhấn mạnh giải pháp cần minh bạch quá trình xây dựng văn bản pháp luật; khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cần mời luật sư và đối tượng chịu tác động của văn bản góp ý, phản biện; đặc biệt cần nâng cao chất lượng đội ngũ xây dựng pháp luật, tránh tình trạng lợi ích nhóm, "cài cắm lợi ích"; đồng thời cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo trong xây dựng, thực thi pháp luật,...

Đại biểu Nguyễn Thị Yến (Bà Rịa - Vũng Tàu) bày tỏ đồng tình với báo cáo kinh tế, xã hội của Chính phủ trong năm 2018 và những tháng đầu năm 2019 với 12/12 chỉ tiêu đều đạt, 8 chỉ tiêu vượt mức Quốc hội đề ra, đại biểu cho rằng đây là niềm vui chung của cử tri cả nước. Đại biểu cũng nhất trí với các giải pháp được Chính phủ đề ra trong năm 2019. Đồng thời đại biểu góp ý việc bảo đảm tiêu chí kiềm chế lạm phát dưới 4% trong năm 2019 khi thời gian qua có nhiều mặt hàng, dịch vụ cơ bản thiết yếu tác động đến đời sống người dân được điều chỉnh giá (dịch vụ y tế, giáo dục, xăng dầu, thực phẩm,...). 

Đại biểu Dương Xuân Hòa (Lạng Sơn) tham luận về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Nhấn mạnh những kết quả hết sức phấn khởi đã đạt được trong thực hiện chương trình, đại biểu cũng góp ý một số giải pháp nhằm giải quyết những khó khăn thách thức như: Thu hẹp khoảng cách xây dựng nông thôn mới giữa các vùng miền; ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh;...

Tiếp đó, các đại biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận); Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ); Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk); Nguyễn Sơn (Hà Tĩnh); Nguyễn Quốc Hận (Cà Mau); Nguyễn Thanh Hải (Tiền Giang); Nguyễn Trường Giang (Đắc Nông); Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận)... bày tỏ hài lòng và ấn tượng với những kết quả đã đạt được, cho rằng kinh tế, xã hội đất nước là một "bức tranh đẹp, toàn diện" đã thể hiện sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo điều hành sâu sát, quyết liệt của Chính phủ và các bộ ngành, địa phương. 

Đồng thời, các đại biểu cũng tham luận một số nội dung về: Giải pháp chuyển đổi hộ sản xuất kinh doanh thành doanh nghiệp hướng tới mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp; quản lý giá cả; an toàn thông tin và an ninh mạng; giải pháp bảo đảm tăng trưởng bền vững; nâng cao năng suất, chất lượng lao động; bảo đảm cân đối ngân sách nhà nước; bảo đảm trật tự, an ninh xã hội; đấu tranh triệt phá tín dụng đen, tội phạm ma túy, trộm cắp, cướp tài sản, giết người man rợ; quản lý người nghiện ma túy; xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em; triển khai sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; thu hồi tài sản thất thoát trong các vụ án tham nhũng; triển khai các dự án giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long; giải ngân vốn đầu tư công; cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng;...

Đại biểu Hoàng Quang Hàm: Kinh tế, ngân sách năm 2018 là một bức tranh đẹp, toàn diện, song vẫn cần những lời giải căn cơ để phát triển bền vững. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Cần lời giải căn cơ để phát triển bền vững

 

Khẳng định “kinh tế, ngân sách 2018 là một bức tranh đẹp, toàn diện”, đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho rằng Chính phủ cũng đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại như: Mô hình tăng trưởng chưa thực sự đổi mới, còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố đầu vào thay vì đổi mới công nghệ. Khu vực nông nghiệp, tăng trưởng còn tiềm ẩn yếu tố thiếu bền vững. Khu vực công nghiệp, thì tính gia công trong sản xuất công nghiệp còn lớn, phụ thuộc nhiều vào thị trường cung cấp bên ngoài; trình độ công nghệ sản xuất vẫn vào loại thấp so với thế giới và khu vực; nội lực của nền công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Khu vực dịch vụ phát triển còn hạn chế, chưa thể hiện được vai trò chủ đạo dẫn dắt tốc độ tăng trưởng kinh tế.

 

Theo đại biểu, “đổi mới mô hình tăng trưởng hướng tới tăng trưởng bền vững vẫn là bài toán đặt ra cần một lời giải căn cơ toàn diện”.

 

Đề cập đến những vấn đề cụ thể, đại biểu Hoàng Quang Hàm cho biết, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động năm 2018 và 4 tháng đầu năm 2019 đều tăng so với cùng kỳ, nhưng “tốc độ tăng chậm hơn so với tốc độ tăng của số doanh nghiệp ngừng hoạt động”; “cứ 10 doanh nghiệp gia nhập thì có hơn 5 doanh nghiệp rời thị trường”; “năng lực sản xuất, hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp còn thấp, cần có giải pháp mạnh mẽ hơn”,…

 

Liên quan đến chất lượng lao động, đại biểu cho rằng, năng suất lao động tăng qua các năm, nhưng chất lượng lao động còn bất cập. Hết 2018 nền kinh tế có khoảng 54 triệu lao động, nhưng có 22 triệu lao động chưa qua đào tạo, 41 triệu lao động chưa được đào tạo từ 3 tháng trở lên. Điều này cho thấy, chất lượng lao động đang là vấn đề lớn, ảnh hưởng đến tăng trưởng, nguy cơ dư thừa lao động khi đối diện với cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang dần hiện hữu cần có giải pháp đột phá.

 

Về ngân sách nhà nước - nguồn lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng, đại biểu Hoàng Quang Hàm cho rằng, Chính phủ đã rất nỗ lực để cân đối được ngân sách; có nguồn thu để đáp ứng nhiệm vụ chi; kiểm soát bội chi, kéo nợ công ra xa mức trần. “Chính phủ đã rất nỗ lực, quyết tâm”. Nhấn mạnh điều này, song đại biểu Hoàng Quang Hàm cho rằng, “vẫn còn những bất cập cần tiếp tục tháo gỡ” để bảo đảm thu ngân sách bền vững.

Đại biểu Nguyễn Thị Xuân: Cần quyết liệt hơn nữa để mọi người dân được sống trong môi trường xã hội thật sự an bình, hạnh phúc. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Để người dân được sống trong môi trường thực sự an bình

 

Theo đại biểu Nguyễn Thị Xuân (Đắk Lắk): “Trong những nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân để tạo ra sự chuyển mình của đất nước, có sự đóng góp rất to lớn của các lực lượng vũ trang trong việc giữ gìn, bảo đảm nền quốc phòng an ninh vững chắc, phục vụ các nhiệm vụ phát triển KT-XH, đối ngoại của đất nước”. 

 

Cụ thể, về trật tự an toàn xã hội, đại biểu nhận định chúng ta đã kiềm chế tình trạng gia tăng tội phạm, không để tội phạm lộng hành, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng được điều tra, phá án nhanh, dư luận đánh giá cao. Tỷ lệ điều tra, khám phá các vụ án hình sự đạt và vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện điều tra xử lý nghiêm minh, công khai và đúng pháp luật, được cử tri, nhân dân hoan nghênh, đồng tình ủng hộ.

 

Đặc biệt công tác đấu tranh với tội phạm ma túy đạt được nhiều chiến công rất xuất sắc, đã đánh đúng, đánh trúng nhiều đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy lớn xuyên quốc gia, thu giữ nhiều số lượng lớn ma túy các loại chưa từng có từ trước tới nay. 

 

Bên cạnh những chuyển biến tích cực trên các mặt công tác, trong Báo cáo đánh giá của Chính phủ đã chỉ ra 11 nhóm tồn tại, hạn chế, trong đó nhóm thứ 11 đã đề cập đến tồn tại, hạn chế trên lĩnh vực an ninh trật tự.

 

“Hoàn toàn đồng tình với đánh giá này”, đại biểu cũng chỉ rõ, nhiều cử tri lo lắng trước tình trạng tín dụng đen, cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen ngày càng tăng, không chỉ ở các thành phố lớn mà đã xuất hiện cả ở nông thôn, các vùng xa xôi, hẻo lánh. Hệ lụy là nhiều gia đình tan gia, bại sản, gây mất trật tự an ninh, xã hội. Trong khi pháp luật của chúng ta chưa gọi tên để xử lý được loại tội phạm này. 

 

Một số cử tri bày tỏ sự quan ngại về tình hình phạm pháp hình sự tăng, có lúc, có nơi gây bức xúc dư luận, như tình trạng mua bán sử dụng chất ma túy, nạn nghiện hút, sử dụng chất gây nghiện trong thanh thiếu niên, các vụ trộm cắp, cướp tài sản, giết người man rợ, trong đó có nhiều vụ án, trọng án nguyên nhân chủ yếu từ người nghiện ma túy gây ra, gây tâm lý bất an trong nhân dân. 

 

Các đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn, mặc dù lực lượng công an đã phát hiện triệt phá nhiều đường dây mua bán ma túy xuyên quốc gia, tuy nhiên có cử tri thắc mắc liệu Việt Nam đã trở thành địa bàn buôn bán ma túy xuyên quốc tế hay chưa? Tại sao một khối lượng rất lớn ma túy bị lọt vào trong nội địa Việt Nam? Trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan trong việc kiểm tra, ngăn chặn ma túy tổng hợp trong nước như thế nào?

 

Tình hình các hành vi bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em ngày càng diễn biến phức tạp, trong khi cử tri băn khoăn liệu mức xử phạt với tội phạm trên đã đủ sức răn đe chưa? 

 

Nêu hàng loạt mối quan tâm lo lắng, bức xúc của cử tri, người dân, đại biểu Nguyễn Thị Xuân cho rằng, các cấp có thẩm quyền cần sớm tập trung chỉ đạo giải quyết rõ nét, quyết liệt hơn nữa để mọi người dân được sống trong môi trường xã hội thật sự an bình, hạnh phúc.

Đại biểu Nguyễn Trường Giang đề nghị xử lý kỷ luật nghiêm minh những tổ chức, cá nhân cố tình trì hoãn cổ phần hóa. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Kỷ luật nghiêm các tổ chức, cá nhân trì hoãn cổ phần hóa

 

Theo đại biểu Nguyễn Trường Giang (Đắk Lắk), trong những năm qua, công tác cơ cấu lại, sắp xệp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cơ chế, chính sách về đổi mới tổ chức, quản lý, sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung khá đầy đủ và đồng bộ. Các doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại đã tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng, thực hiện vai trò, nhiệm vụ làm nòng cốt điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp sau cổ phần hóa được nâng lên. Ngân sách nhà nước cũng thu được nguồn vốn đáng kể phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác cổ phần hóa vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Việc phê duyệt phương án cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước ở một số bộ, ngành, địa phương chậm; còn giữ cổ phần chi phối ở nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa chậm dần đều qua các năm, không đạt kế hoạch đề ra...

 

Chỉ ra những nguyên nhân khách quan, đại biểu Nguyễn Trường Giang cho  rằng, còn có nguyên nhân chủ quan như: Kỷ cương, kỷ luật trong thực thi chính sách, pháp luật chưa nghiêm. Nhiều cấp, nhiều ngành còn chưa tích cực, chủ động triển khai nhiệm vụ. Còn tình trạng lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cơ cấu lại cổ phần hóa thoái vốn, gây bức xúc dư luận. Kỷ luật chấp hành chỉ đạo của cấp trên, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chưa được thực hiện nghiêm, nhưng việc xác định và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân để xảy ra sai phạm chưa được kịp thời. 

 

Đề xuất giải pháp, đại biểu Nguyễn Trường Giang đề nghị, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo kế hoạch đề ra. Thực hiện công khai, minh bạch, khẩn trương xác định giá trị doanh nghiệp, có lộ trình thời gian cụ thể để cổ phần hóa, thoái vốn. Có hình thức xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những tổ chức, cá nhân cố tình trì hoãn, không thực hiện cổ phần hóa cũng như cơ quan, tổ chức, cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn can thiệp trái pháp luật vào quá trình cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp. 

Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Bứt phá hoàn thành kế hoạch 5 năm 2016-2020

Trước đó, tại phiên khai mạc ngày 20/5, thay mặt Chính phủ Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đã trình bày Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2018; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2019.

Báo cáo khẳng định, nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình KTXH quý IV đã chuyển biến tích cực, góp phần mang lại kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của năm 2018 - năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020. Chúng ta đã đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó 3 chỉ tiêu đạt, 9 chỉ tiêu vượt và nhiều chỉ tiêu đạt cao hơn số đã báo cáo Quốc hội.

Xác định năm 2019 là năm bứt phá để hoàn thành kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 và kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã xác định phương châm "kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả"; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể; có kịch bản tăng trưởng, phương án điều hành hàng tháng, hàng quý theo ngành, lĩnh vực; thường xuyên kiểm điểm, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện. Tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để tháo gỡ rào cản, khó khăn, vướng mắc, nhất là về đầu tư, thương mại, thuế, phí, lao động, đất đai, tài nguyên...

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung đơn giản hóa, cắt giảm điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Tổ chức các hội nghị toàn quốc về: hội nhập quốc tế, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, chế biến nông sản, phát triển vùng kinh tế trọng điểm, du lịch, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp công nghệ, đổi mới sáng tạo... đưa ra những cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, thúc đẩy những ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, tạo động lực cho phát triển. 

Nhiều địa phương đã chủ động tổ chức các diễn đàn, chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch… với sự tham gia của đông đảo các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước, ngoài nước để phát huy tiềm năng, thế mạnh, thu hút các nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển KTXH của địa phương, của vùng và cả nước. 

Theo đó, các chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội được thể chế hóa và triển khai sâu rộng vào thực tiễn ngay từ những ngày đầu quý I/2019.

Toàn cảnh phiên họp. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Thực hiện quyết liệt, hiệu quả từng lĩnh vực cụ thể

Báo cáo cũng cho biết, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ thường xuyên chỉ  đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong từng lĩnh vực cụ thể, chú trọng giải quyết những vấn đề cấp bách, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy triển khai các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, rà soát quy hoạch ngành, lĩnh vực, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cung cấp dịch vụ công trực tuyến, phát triển Chính phủ điện tử...

Các cấp, các ngành thường xuyên tổ chức đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; chú trọng thực hiện tốt các chính sách về văn hóa, xã hội, môi trường; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về giáo dục đào tạo, y tế, đạo đức, văn hóa ứng xử; xử lý nghiêm vi phạm về an toàn thực phẩm, môi trường và tệ nạn xã hội.

Chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật, phòng chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, trấn áp tội phạm; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế... được cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ủng hộ và đồng thuận cao.

Dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục, GDP quý I/2019 đạt 6,79%

Về kết quả đạt được trong những tháng đầu năm 2019, báo cáo cho biết, Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng tăng 2,71%, thấp nhất trong 3 năm qua. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại hối nhà nước đạt kỷ lục. Tăng trưởng kinh tế (GDP) quý I đạt 6,79%. Xuất khẩu 4 tháng đạt 78,8 tỷ USD, tăng 5,8%; xuất siêu 711 triệu USD…

Thời gian qua, chúng ta cũng thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; tích cực thực hiện các chương trình, đề án mới về phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đến nay đã có 72 huyện và 4.340 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 48,7%).

Cùng với phát triển kinh tế, Chính phủ cũng chú trọng chỉ đạo thực hiện các chính sách phát triển văn hóa, xã hội và tập trung giải quyết các vấn đề xã hội; tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững. Đời sống đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai được quan tâm, chăm lo.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tiến hành rà soát, xử lý các dự án chậm đưa đất vào sử dụng, để lãng phí đất đai. Quản lý chặt chẽ nguồn thu từ đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước. Không để xảy ra sự cố đáng tiếc về môi trường; kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng…

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh VGP/Nhật Bắc

 

Theo dõi chặt chẽ, ứng phó kịp thời

Nhận định về tình hình thế giới, trong nước thời gian tới, báo cáo khẳng định: Nhiệm vụ đặt ra từ nay đến cuối năm 2019 và trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ là rất nặng nề. Để phát huy những kết quả đạt được, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành không chủ quan trong chỉ đạo điều hành; tập trung mọi nỗ lực để vượt qua khó khăn, thách thức; kiên định các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch đề ra; tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ.

Cụ thể là, cần theo dõi sát, nắm chắc diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để có đối sách phù hợp, kịp thời; chú trọng khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và giải quyết các vấn đề mới phát sinh; chủ động nghiên cứu, có chính sách, giải pháp phù hợp để thúc đẩy các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế tạo động lực cho phát triển; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phát huy hơn nữa tiềm năng, sức mạnh của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2019, góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm 2016 - 2020.

7 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Báo cáo của Chính phủ cũng nêu rõ 7 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm Chính phủ thực hiện trong thời gian tới gồm:

Một là, kiên định mục tiêu củng cố nền tảng vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng.

Hai là, thực hiện quyết liệt cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh

Ba là, chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân

Bốn là, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu

Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Sáu là, tăng cường quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế

Bẩy là, chủ động đẩy mạnh thông tin và truyền thông; tăng cường công tác phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể./.

398 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 698
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 698
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 76718462