|
Ở nước ta, công cuộc đổi mới, xét về phương diện lý luận là sự kế thừavà phát triển sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Hồ Chí Minh .
(Ảnh: Báo Tuổi trẻ online)
|
1- Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin
Những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, lịch sử nhân loại đã chứng kiến một tổn thất to lớn: Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào. Thực trạng này đặt chủ nghĩa Mác-Lênin trước những thách thức khắc nghiệt của lịch sử. Trong bối cảnh này, cựu Tổng thống Mỹ R.Nixơn - tác giả của chiến lược: "Chiến thắng không cần chiến tranh" cho đây là thời cơ lớn phải "Chớp lấy" để "Chủ động tấn công, cam kết có phân biệt với từng nước, từng khu vực. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa đã tan vỡ và các nước xã hội chủ nghĩa còn lại thì phải thừa thắng tấn tới, tiếp cận, chuyển hóa".
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược tiến công của chủ nghĩa đế quốc, nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh vũ trang, là cuộc chiến tranh không khói súng. Khâu đột phá của chiến lược này là tấn công trên mặt trận tư tưởng-lý luận nhằm phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phủ định sự lãnh đạo của Đảng; bóp méo, xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng; bôi nhọ, hạ bệ uy tín của lãnh đạo; phá vỡ niềm tin của nhân dân đối với Đảng; xây dựng "ngọn cờ" cho các tổ chức chính trị đối lập, kích động bạo loạn lật đổ.
Thực hiện âm mưu chiến lược trên, các nhà chính trị và tư tưởng tư sản phản động phối hợp với những phần tử cơ hội chính trị trong nước, thông qua các phương tiện báo chí, xuất bản ở nước ngoài và nhất là trên mạng xã hội, tung ra hàng loạt các quan điểm tư tưởng phản động, sai trái.
Là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, là thế giới quan, phương pháp luận vạch phương hướng đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, hiện thực mục tiêu giải phóng giai cấp - xóa bóc lột, giải phóng xã hội - xóa áp bức bất công, giải phóng con người mang lại tự do, ấm no hạnh phúc cho mọi con người, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Do đó, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội tập trung chống phá rất điên cuồng với các thủ đoạn thâm hiểm và các luận điệu giả khoa học, xuyên tạc vu khống, mị dân để phê phán, phủ định từ nguồn gốc hình thành, đến phê phán từng nguyên lý, từng bộ phận cơ bản hợp thành, đến phê phán phủ định toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng ta có nguyên nhân từ âm mưu "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng lý luận của các thế lực thù địch.
Để tăng cường xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị tư tưởng, hơn lúc nào hết, chúng ta phải mài sắc vũ khí tư tưởng lý luận, đấu tranh phản bác các quan điểm tư tưởng phản động sai trái, bảo vệ, kiên định vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nhà tư tưởng tư sản tung ra hàng loạt các luận điểm phản động sai trái, tua đi, tua lại một số luận điểm sau đây:
- Sự tận cùng của lịch sử - sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại vĩnh viễn của chủ nghĩa tư bản! (Fukuyama).
- Thuyết về các nền văn minh của Tốphlơ phủ định học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
- Thuyết về chủ nghĩa tư bản nhân dân, chủ nghĩa tư bản mới phủ định học thuyết giá trị thặng dư…
- Nhiều luận thuyết xuyên tạc và phủ định học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Một số tài liệu, sách báo, phim ảnh của các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài trong chiến dịch: No Hochiminh! nhằm bôi nhọ, hạ bệ thần tượng và phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tất cả các luận thuyết, các quan điểm, luận điểm sai trái trên đều nhằm mục đích quy kết: Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ có nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời! Bác Hồ đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là nguyên nhân gây ra cảnh huynh đệ tương tàn. Lựa chọn chủ nghĩa xã hội là đưa dân tộc Việt Nam đến chỗ chết!
Để tập trung phản bác các luận điểm phản động, sai trái trên, các chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng cần kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở thấu triệt những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:
Sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết là ở hệ thống các quan điểm khoa học của Mác, Ăngghen, Lênin trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngày nay, không ít những người chống chủ nghĩa Mác hoặc do những động cơ chính trị vụ lợi, hoặc do sự non kém về tri thức đã không thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là một sản phẩm cá nhân thuần túy mà là sự kế thừa phát triển thiên tài những trào lưu tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại thế kỷ XIX. C.Mác, Ph.Ăngghen đã nghiên cứu và kế thừa kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và L.Phơiơbắc. Như Ph.Ăngghen đã nhận định: C.Mác vĩ đại bởi vì ông “biết đứng trên vai của những người khổng lồ", đó là D.Ricacđo, A.Smit, O.Xanhximông, G.Fourier, Ph.Ăngghen và L.Phơiơbắc.
Học thuyết Mác cũng như tất cả các học thuyết khác, chẳng những không thể vượt qua những hạn chế của lịch sử, mà còn có thể có những khiếm khuyết nào đó, song tính bền vững của những tư tưởng Mác-xít so với các tư tưởng khác là ở chỗ nó dựa trên thế giới quan khoa học tức là phép biện chứng duy vật. Đúng như C.Mác đã nói, đối với triết học biện chứng thì không có gì vĩnh viễn không thay đổi, là tuyệt đối cả. Chính Mác, Ăngghen và V.I.Lênin đã nêu một tấm gương lớn về tinh thần khiêm tốn, khoa học. Các ông luôn tự kiểm tra mình, tự phê phán và vượt lên chính mình để vươn tới chân lý khách quan. Sự vận động của lịch sử nhân loại ngày nay đang tiếp tục cung cấp những tư liệu mới cho các quan điểm của Mác về phương thức sản xuất ra của cải vật chất, quyết định sự tồn tại của xã hội. Sự thay đổi của phương thức sản xuất vật chất tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi về cơ cấu giai cấp, cấu trúc kinh tế, nội dung chính trị, đạo đức, lối sống và tư duy của con người. Quan điểm duy vật lịch sử của Mác chẳng những đã lý giải một cách chính xác sự vận động của lịch sử, mà còn là chìa khóa của tương lai học.
Các quan hệ xã hội, dân tộc ngày nay đã thay đổi sâu sắc so với thời đại Mác sống. Đó là điều hiển nhiên. Sự thay đổi đó không phải chỉ do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, do sự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại, mà còn do ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa xã hội, hiện thực của sự phát triển ý thức dân tộc. Tuy nhiên, điều đó không làm cho những tư tưởng của Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về dân chủ và nhà nước… trở nên lạc hậu. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa ở một số nước, một mặt nói lên rằng, một khi xa rời những tư tưởng của Mác tất yếu phải trả giá đắt; mặt khác cũng chứng minh rằng, đấu tranh giai cấp, thiết lập chế độ xã hội do nhân dân làm chủ là con đường hiện thực và tất yếu, nhưng đầy gian khổ để đi đến giải phóng hoàn toàn xã hội. Không thể có con đường nào khác.
Đối với học thuyết kinh tế của Mác, trong khi một số người ra sức bài bác, thậm chí xuyên tạc rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại thay đổi về chất, nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là nhà nước phúc lợi chung, do đó học thuyết của Mác đã trở nên lỗi thời, thì nhiều nhà kinh tế lớn lại dựa vào Mác để phát triển các luận điểm của mình. Thậm chí có nhà kinh tế của chủ nghĩa tư bản nói rằng: Mác là một trong những người khổng lồ đã làm một cuộc cách mạng trong kinh tế học (R.A.Samuenson): "Nếu không có sự phân tích của Mác thì mâu thuẫn trung tâm của chủ nghĩa tư bản (giữa lao động và tư bản), tình trạng bất bình đẳng giữa nước giàu và nước nghèo vẫn sẽ là một thực tế khó hiểu (M.Galô).
Chúng ta không phủ nhận rằng, ngày nay dựa trên việc sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự thay đổi. Song nếu phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, thì sẽ phạm phải sai lầm nghiêm trọng cả về khoa học và chính trị. Cho dù ngày nay, người ta có thể đưa lao động quản lý của nhà tư bản vào cơ cấu của giá trị thặng dư, thì chắc chắn rằng phần đóng góp đó cũng không thể bao gồm toàn bộ giá trị thặng dư. Nếu xóa bỏ khái niệm đó, thì chúng ta, thậm chí không thể giải thích được tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Và không thể quên rằng giá trị thặng dư còn phản ánh một phương diện khác của sản xuất, nói chung - đó là, không một nền kinh tế nào muốn phát triển lại không dựa trên sản phẩm thặng dư.
Về mặt chính trị, việc phủ nhận giá trị thặng dư, có nghĩa là không còn lý do nào để xóa bỏ cái cơ cấu xã hội đang đè nặng lên hơn 90% nhân loại. Thái độ đúng đắn là tiếp tục sự nghiệp của Mác, bằng hoạt động khoa học và thực tiễn, tìm kiếm các giải pháp, bước đi thích hợp, từ hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột, đồng thời vẫn duy trì các động lực của sự phát triển.
Theo Mác, chủ nghĩa cộng sản ra đời không ngoài quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự phủ định biện chứng, chứ không phải là phủ định siêu hình chủ nghĩa tư bản. Học thuyết Mác đề cao vai trò tích cực của con người - trước hết là sự nhận thức các quy luật khách quan. Tiếp thu tư tưởng của Mác, Lênin đã chỉ rõ biện chứng cách mạng là bản chất học thuyết Mác. Theo Người, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức có thể tiến hành các cuộc cách mạng để giành lấy những tiền đề cho một sự phát triển ngắn hơn, ít đau khổ hơn con đường tư bản chủ nghĩa.
Nội dung, tính chất một số vấn đề đang đặt ra đối với sự nghiệp cách mạng ngày nay đã khác với thời đại Mác sống. Cuộc đấu tranh nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức chuyển sang một giai đoạn mới với những hình thái mới. Hơn bao giờ hết, nhưng chỉ dẫn của Mác và Lênin về sự đa dạng của loại hình đấu tranh, về khả năng lựa chọn các con đường phát triển và về nhịp độ cải biến xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản lại trở nên hết sức quý báu đối với chúng ta.
Là một học thuyết cách mạng, sức sống của chủ nghĩa Mác còn ở các trào lưu cách mạng hiện thực. Cho dù chủ nghĩa xã hội hiện thực là một mô hình có những khuyết tật và sai lệch so với tư tưởng của Mác, nhưng nó đã có những cống hiến lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Mặc dù một loạt nước xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ, song vẫn còn hàng triệu triệu người vững tin ở tương lai của chủ nghĩa xã hội. Ngay ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sau "cuộc cách mạng nhung", phong trào cánh tả ở Mỹ Latinh, thắng cử của nhiều Đảng xã hội dân chủ ở châu Âu, một cuộc đấu tranh mới cho lý tưởng cộng sản lại bắt đầu.
Cuộc đấu tranh chống tư bản độc quyền giành quyền dân sinh, dân chủ ở các nước tư bản phát triển cũng như cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc ở các nước nghèo là những trào lưu hình thành do ảnh hưởng của học thuyết Mác - Lênin được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, các trào lưu đó vẫn tồn tại và phát triển. Đó là khuynh hướng lịch sử không thể đảo ngược.
Sức sống của học thuyết Mác đang thể hiện một cách sinh động trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng của những người cộng sản chống lại những biểu hiện mới của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cũng như những biểu hiện mới của chủ nghĩa giáo điều, để bảo vệ và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới, xét về phương diện lý luận là sự kế thừa và phát triển sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Hồ Chí Minh. Tư tưởng xuyên suốt đường lối đổi mới là giải phóng và phát triển - giải phóng và phát triển mọi tiềm năng của đất nước, từng bước hiện thực hóa mục tiêu cao đẹp là phấn đấu để mọi người Việt Nam ai cũng có cơm ăn, ăn no tiến đến ăn ngon; ai cũng có áo mặc, mặc đủ tiến đến mặc đẹp; ai cũng có nhà ở, tiến đến ở khang trang; ai cũng được học hành để không ngừng nâng cao dân trí; ai có bệnh đều được chăm sóc, mọi người sống trong tự do, nhân ái, chan hòa.
Sau sự nghiệp giải phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Nội dung, tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng đã thay đổi về cơ bản. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo nên một cơ chế có động lực mạnh mẽ: kết hợp hài hòa các lợi ích vật chất và nhân đạo hơn quan hệ xã hội; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đảm bảo một xã hội có kỷ cương và thực hiện trên thực tế quyền làm chủ của nhân dân; dân chủ hóa toàn diện xã hội, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của cả cộng đồng và sức mạnh của từng con người Việt Nam được giải phóng; thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, hòa hợp dân tộc; đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù; từng bước hoàn thiện mô hình mới của Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2- Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Từ bối cảnh lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX, từ sự thất bại của hàng loạt các phong trào yêu nước của các sĩ phu Việt Nam, từ việc người thanh niên ưu tú của dân tộc Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước thương dân nồng nàn, với khát vọng độc lập tự do cháy bỏng, với sự mẫn cảm của một thiên tài trí tuệ quyết định ra đi tìm con đường cứu nước mới. Từ toàn bộ hoạt động cách mạng sôi nổi, hào hùng của Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh…, chúng ta có thể đi tới một nhận thức sáng tỏ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp tinh hoa văn hóa Việt Nam mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn hóa nhân loại. Sự kết hợp tuyệt với này chính là cuộc gặp gỡ lịch sử của tinh hoa văn hóa, khí phách của dân tộc Việt Nam với đỉnh cao của trí tuệ thời đại.
Từ hệ thống các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh và trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Người, chúng ta nhận thức sâu sắc rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng sáng tạo mà đặc sắc hơn là sự phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam - hoàn cảnh có tính phổ biến của hàng trăm dân tộc trên thế giới bị chủ nghĩa thực dân thống trị. Tìm hiểu những quan điểm tư tưởng lý luận cách mạng của Bác Hồ, chúng ta càng thấm thía sự phát triển sáng tạo và những đóng góp vô giá của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Khi nghiên cứu bản chất và quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đưa ra khẩu hiệu lịch sử: Giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại; đến V.I.Lênin, khi nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã đưa ra khẩu hiệu: Giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Với Bác Hồ, từ sự phát hiện và thấu hiểu đòi hỏi bức xúc của dân tộc Việt Nam và hàng trăm dân tộc bị chủ nghĩa thực dân thống trị trong thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đã đi tới quan điểm tư tưởng: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Ở đây, độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội.
Trong diễn văn kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Bác, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nêu bật: Đây là đóng góp lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với hệ tư tưởng Mác - Lênin. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.
Trong chiến lược cách mạng, Mác dự báo khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời ở một loạt nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đến Lênin, trong điều kiện mới đã đưa ra luận điểm: Cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí một nước tư bản trung bình nếu nước đó tập trung những mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại, là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc.
Từ sự phát triển cực kỳ quan trọng về chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai đầu, một đầu hút máu nhân dân lao động chính quốc, một đầu hút máu các dân tộc thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo chiến lược cách mạng thế giới khi Người khẳng định: Cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc là một trong hai cánh chim. Cách mạng giải phóng dân tộc không thụ động chờ sự giúp đỡ của cách mạng ở chính quốc, mà phải chủ động giành thắng lợi và giúp đỡ hỗ trợ cho phong trào cách mạng ở chính quốc.
V.I.Lênin đã tổng kết nguyên lý hình thành Đảng Cộng sản: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân. Đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam - ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đại đa số là nông dân, giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng là giai cấp duy nhất gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng, đã đi tới một sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo nguyên lý Đảng kiểu mới của Lênin, xây dựng thành công một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Từ sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo này mà ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Từ thực tế cách mạng Việt Nam, Người luôn luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực và phẩm chất cho đảng viên. Nhờ vậy, mặc dù Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đa số đảng viên không phải là công nhân nhưng bản chất giai cấp công nhân và vai trò tiên phong cách mạng của Đảng vẫn được giữ vững. Và chính trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta trở thành người lãnh đạo duy nhất của dân tộc Việt Nam, được toàn thể dân tộc Việt Nam coi là Đảng của mình, là người lãnh đạo duy nhất của dân tộc mình.
Càng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, càng nhận thức sâu sắc sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Người, chúng ta càng kiên định nguyên lý: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý; cách mạng là sáng tạo, là đổi mới; giáo điều, rập khuôn, máy móc là thất bại.
Di sản quý báu nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam và toàn nhân loại chính là tư tưởng của Người mà bộ phận cốt lõi là hệ thống các quan điểm tư tưởng lý luận cách mạng của Người. Xin được nêu lên những nội dung cơ bản của tư tưởng lý luận cách mạng Hồ Chí Minh.
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng suốt đời chiến đấu vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây chính là hệ thống mục tiêu, lý tưởng của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới mà Bác Hồ đã tìm ra.
Hệ thống mục tiêu lý tưởng này được hình thành ở Bác không phải là ngẫu nhiên mà trong những điều kiện lịch sử nhất định: Từ truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền thống của gia đình, quê hương; từ thực tiễn sôi động của dân tộc và của thế giới đương thời mà Người đã trải qua. Và điều quan trọng đặc biệt là hệ thống mục tiêu lý tưởng này được hình thành đầy đủ hoàn thiện trên cơ sở khoa học khi diễn ra cuộc gặp gỡ lịch sử: Nguyễn Ái Quốc - Người con ưu tú của dân tộc Việt Nam với lòng yêu nước thương dân nồng nàn, với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác-Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại.
b) Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm ra và xác định được hệ thống mục tiêu lý tưởng cho dân tộc và cách mạng Việt Nam trong thời đại mới mà Người còn tìm ra con đường để thực hiện mục tiêu lý tưởng cao đẹp này - con đường gắn chặt độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không còn con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản". Với tư tưởng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia và quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay và từ nay về sau.
Để hiểu sâu sắc tư tưởng về con đường cách mạng, con đường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần nhận thức sân sắc luận điểm vô cùng quan trọng của Bác trong tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Ở đây, độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, là điều kiện tiên quyết. Năm 1941, khi về nước cùng Trung ương trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tại Hội nghị Trung ương 8, sau khi phân tích rõ bối cảnh và mâu thuẫn cơ bản chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam, Bác Hồ đã khẳng định: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Vào đầu năm 1945, khi tình thế thời cơ cách mạng đã xuất hiện, Bác Hồ đi tới quyết định lịch sử: Lúc này dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng quyết giành độc lập cho dân tộc!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu hàng đầu, tiên quyết, là phương châm chỉ đạo cuộc đấu tranh giành độc lập mà còn là lời hịch thiêng liêng của lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tiếng gọi thiêng liêng này đã động viên được sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc để giành và bảo vệ cuộc sống của mình. Ngày nay, ý nghĩa và tầm vóc của tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã vượt ra khỏi không gian của Việt Nam, được nhiều dân tộc trên thế giới thừa nhận là chân lý của thời đại.
Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều tệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng - trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, ngay từ Cương lĩnh đầu tiên này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một luận điểm cơ bản: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Luận điểm đã chỉ rõ sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với tư cách một chế độ chính trị.
Trong thời gian ngắn lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những quan điểm rất cơ bản và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Những quan niệm của Bác về chủ nghĩa xã hội như: "Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc", "nước độc lập mà dân không hưởng tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa lý gì", "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những tập quán không tốt dần được xóa bỏ", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây lấy", "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh".
Những quan niệm cơ bản trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức từng bước hiện thực hóa.
Về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những quan điểm tư tưởng vô cùng quan trọng. Trước hết đó là những luận điểm của Người về điểm xuất phát, đặc điểm lớn nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất, sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện nay"; "sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm". Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội… Có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, có khoa học tiên tiến. "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", Bác cũng để lại những luận điểm rất quan trọng về các thành phần kinh tế, về phát triển kinh tế quốc doanh làm nền tảng, về quản lý kinh tế và khuyến khích nhân dân làm giàu: Người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn trở thành khá giả và giàu có, người giàu có thì giàu có hơn… Những tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
c) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho cách mạng Việt Nam sự sáng tạo vĩ đại về phương pháp cách mạng. Sau khi có đường lối cách mạng đúng rồi thì phương pháp cách mạng có vai trò quyết định đối với thành bại của cách mạng.
Tư tưởng về phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh rất phong phú và sâu sắc. Có thể tiếp cận hai phương pháp cách mạng rất cơ bản sau đây:
Phương pháp tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp được thể hiện trong cuộc chiến đấu giành độc lập và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đó là việc tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp của bạo lực chính trị của quần chúng kết hợp với bạo lực vũ trang, sức mạnh của truyền thống kết hợp với sức mạnh của hiện đại, sức mạnh của dân tộc kết hợp sức mạnh của quốc tế; toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến; đánh địch trên ba mặt trận, ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược…
Ngày nay, trong xây dựng kinh tế, phát huy nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là phương pháp tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
Tư tưởng của Người về phương pháp cách mạng biết thắng từng bước tiến tới thắng lợi hoàn toàn thể hiện trong hai cuộc kháng chiến: Đánh bại từng bước, đánh thắng từng âm mưu, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi, hoàn toàn.
"Đánh cho Mỹ cút
Đánh cho ngụy nhào
Tiến lên chiến sỹ, đồng bào
Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn"
d) Chủ tịch Hồ Chí Minh, không những là nhà tư tưởng vĩ đại mà còn là nhà tổ chức thiên tài. Bác đã để lại hệ thống các quan điểm tư tưởng về lực lượng cách mạng và xây dựng các tổ chức cách mạng. Đó là những tư tưởng lớn của Người về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng kiểu mới; tư tưởng của Người về nhà nước cách mạng và xây dựng Nhà nước mang bản chất cách mạng của dân, do dân, vì dân, tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công"; tư tưởng của Người về lực lượng vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về nghệ thuật quân sự; tư tưởng của Người về xây dựng các đoàn thể cách mạng của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ…
Tư tưởng xuyên suốt của Người trong xây dựng các tổ chức lực lượng cách mạng, đó là tư tưởng bao trùm: Nước lấy dân làm gốc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; mọi việc đều do dân và vì dân; nhân dân là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng. "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
e) Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, lấy sự hợp lòng dân, phù hợp với hoàn cảnh thực tế làm thước đo cho sự đúng đắn và hiệu quả của mọi đường lối chủ trương, chính sách.
f) Một trong những di sản vô giá Bác Hồ để lại cho Đảng ta, dân tộc ta đó là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tác phong Hồ Chí Minh. Toàn bộ hoạt động cách mạng và cuộc đời của Người, Bác đã để lại một tấm gương cao đẹp sáng ngời về đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng và phong cách hoạt động cách mạng.
Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ "Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Theo Người, đạo đức còn là "nền tảng", là "cái gốc", là "sức mạnh" của người cán bộ cách mạng và của Đảng cách mạng. Tư tưởng đạo đức bao trùm của Người là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; suốt đời sống vì dân, vì nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng xã hội, giải phóng con người, đó là "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục", đó là "cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư".
Toàn bộ cuộc đời và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại tấm gương mẫu mực về phong cách hoạt động cách mạng mà những phong cách tiêu biểu là: Lý luận liên hệ với thực tế; học đi đôi với hành; nói đi đôi với làm. Quán triệt sâu sắc những giá trị tư tưởng nói trên của Bác Hồ, chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh - một di sản vô giá Bác Hồ để lại cho Đảng ta, dân tộc ta - là sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày nay, quán triệt những tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, chúng ta kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Người đã lựa chọn; kiên quyết đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành công một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là cách tốt nhất biểu hiện lòng trung thành vô hạn của chúng ta với lý tưởng và sự nghiệp của Người.
3. Để đấu tranh phê phán bác bỏ các luận điểm phản động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, hơn lúc nào hết mọi cán bộ, đảng viên cần kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng tạo và phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng để hình thành và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối đúng đắn trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Từng bước hiện thực hóa thắng lợi 8 đặc trưng, 8 định hướng xây dựng CNXH trong sự nghiệp, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
PGS.TS Đào Duy Quát