Việt Nam sẽ duy trì được tốc độ phát triển dài hạn nếu tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nhằm hỗ trợ cho mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất. Tâm lý bảo hộ và những rủi ro liên quan đến các biện pháp bảo hộ ở các nền kinh tế lớn cũng là những rủi ro cho nền kinh tế đã rất mở của Việt Nam.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2016 tăng 6,21%, thấp hơn so với mức 6,68% của năm 2015. Điều này cho thấy hoạt động kinh tế chững lại trong năm 2016. Nguyên nhân tốc độ tăng trưởng chững lại trong năm 2016 là do sụt giảm trong các ngành nông nghiệp và khai khoáng. Tốc độ tăng trưởng ngành nông lâm ngư nghiệp chỉ đạt 1,36%, là tốc độ thấp nhất kể từ năm 2011, phản ánh tình hình thời tiết không thuận lợi trong nửa đầu năm. Ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng 7,6%, thấp hơn so với 9,6% năm trước, chủ yếu do tăng trưởng âm 4% ở ngành khai khoáng. Ngược lại, tăng trưởng ngành dịch vụ được đẩy lên gần 7% so với mức 6,3% của năm trước do tiêu dùng tư nhân và kết quả khả quan của ngành du lịch. Xét từ góc độ cầu, tăng trưởng mạnh chủ yếu đến từ đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tăng mạnh và tăng tiêu dùng tư nhân.
Thị trường lao động tiếp tục phát triển tạo điều kiện cải thiện tổng phúc lợi và tỷ lệ nghèo tiếp tục giảm. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 ước tính 5,8%-6,0%. Nếu theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo ước tính khoảng 10%. Gần một triệu người dân rời nông thôn để tìm kiếm việc làm, chủ yếu trong các ngành công nghiệp và xây dựng, với tốc độ tăng trưởng ngành là 7,6% so với cùng kỳ năm trước, và một phần trong các ngành dịch vụ. Theo một phân tích của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng về việc làm ở các ngành phi nông nghiệp dự kiến sẽ bù đắp hoặc tạo ra cơ chế đối phó với suy giảm về thu nhập nông nghiệp do đợt hạn hán El Nino gây ra. Tuy nhiên, tỷ lệ nghèo được dự báo sẽ tăng cục bộ tại các cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng người dân tộc thiểu số do phụ thuộc vào nông nghiệp và chưa được hội nhập nhiều về kinh tế cũng như do ảnh hưởng ô nhiễm môi trường tại các tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế được duy trì với mức lạm phát vừa phải và tình hình kinh tế đối ngoại đang vững lên. Lạm phát sau khi giảm xuống mức kỷ lục năm 2015 đã tăng dần trở lại, chủ yếu do các đợt tăng học phí và dịch vu y tế của nhà nước, nhưng lạm phát lõi vẫn ở mức thấp còn lạm phát chung nằm dưới chỉ tiêu chính thức là 5%. Mặc dù môi trường kinh tế đối ngoại không thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (theo giá hiện hành) tăng trưởng 9% năm 2016, cao hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu, kết hợp với nhập khẩu chững lại, dẫn đến thặng dư thương mại, khiến cho thặng dư tài khoản thanh toán vãng lai tăng từ 0,5% GDP năm 2015 lên hơn 3% năm 2016. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là động lực chính về tăng trưởng kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng của Việt Nam. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kỷ lục năm 2016 ở mức gần 16 tỷ USD (7,7% GDP).
Tỷ giá năm qua tương đối ổn định, mặc dù đồng Việt Nam bắt đầu có hiện tượng mất giá vào cuối năm 2016. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã từng bước khôi phục được dự trữ ngoại hối, mặc dù vẫn ở mức tương đối thấp khoảng 2,8 tháng nhập khẩu vào cuối năm 2016. Trong bối cảnh đồng USD mạnh lên và hầu hết đối tác thương mại chính của Việt Nam đều giảm mạnh tỷ giá, khả năng đồng Việt Nam tăng giá thực và khả năng ảnh hưởng tiêu cực của nó đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam vẫn là một quan ngại.
Mặc dù lãi suất chính sách vẫn không thay đổi, tăng trưởng tín dụng vẫn tăng cao. Tăng trưởng tín dụng lên đến khoảng 19% (so với cùng kỳ năm trước) vào tháng 12/2016. Tốc độ tăng tín dụng (trên gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng GDP theo giá hiện hành) cho thấy có lý do cần quan ngại, đặc biệt vì tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam trên dưới 120% vào tháng 12/2016 hiện đã rất cao trong khi áp lực nợ xấu trong quá khứ còn chưa được giải tỏa đủ.
Bội chi ngân sách cao và kéo dài trong những năm qua. Bội chi ngân sách bình quân ở mức 5,5% GDP trong giai đoạn 2011 - 2016, so với 2,2% GDP trong giai đoạn 2006 - 2010. Số liệu sơ bộ cho thấy ngân sách vẫn tiếp tục chịu áp lực trong năm 2016, với mức bội chi ước tính khoảng 6,5% GDP (bao gồm cả các khoản chi ngoài ngân sách). Bội chi ngân sách cao và kéo dài là lý do chính khiến cho nợ công tăng lên, dự kiến sẽ chạm mức trần quy định là 65% GDP vào cuối năm 2016.
Tuy vậy, theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, triển vọng của Việt Nam trong trung hạn vẫn thuận lợi. Tăng trưởng GDP dự kiến tăng dần trong các năm 2017 - 2019, chủ yếu do sức cầu mạnh trong nước và các hoạt động chế tạo, chế biến định hướng xuất khẩu. Áp lực lạm phát nhìn chung ở mức thấp do giá năng lượng và giá thương phẩm toàn cầu đang giảm. Về ngân sách, tình hình ngân sách sẽ được củng cố phần nào trong thời gian tới, bên cạnh đó quá trình thoái vốn sẽ tăng nhanh, nhưng sẽ được triển khai dần dần nhằm kiềm chế tăng nợ công.
Triển vọng của Việt Nam trong trung hạn vẫn tích cực, nhưng những rủi ro đã biết vẫn còn đó. Nhìn từ trong nước, chậm trễ trong triển khai cải cách ngân sách và chuyển đổi cơ cấu có thể làm tăng nguy cơ dễ tổn thương về kinh tế vĩ mô và giảm tốc độ tăng trưởng tiềm năng. Nhìn từ bên ngoài, kinh tế thế giới biến động mạnh có thể tác động qua các kênh thương mại và đầu tư khiến cho triển vọng tăng trưởng của Việt Nam ảm đạm hơn. Xử lý khả năng dễ tổn thương với các cú sốc về thiên tai, môi trường và khí hậu trong những năm gần đây vẫn là một thách thức trong cải thiện phúc lợi hộ gia đình, đặc biệt ở các vùng nông thôn.
Năm 2017 có ý nghĩa rất quan trọng, năm then chốt trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Để hoàn thành tốt mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2017 đã được Quốc hội thông qua, cần nhận thức đúng và đầy đủ những khó khăn, thách thức để kịp thời có các giải pháp khắc phục. Để vượt qua thách thức, điều hành chính sách tiền tệ cần chủ động, linh hoạt và hoạt động ngân hàng hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Tập trung thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường, thích nghi với biến đổi khí hậu.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu, bao gồm cả thị trường truyền thống và các thị trường có sức mua tiềm năng cao. Phát triển mạnh thị trường trong nước, hệ thống bán lẻ gắn với tiêu thụ hàng nội địa. Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp để đưa cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thực sự đi vào cuộc sống, gắn với thúc đẩy sản xuất và phát triển thị trường nội địa. Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư. Kiên quyết không chấp thuận đầu tư, cấp phép, triển khai các dự án không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường, có nguy cơ gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.../.
Đặng Hiếu