TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập 

(Chinhphu.vn) – Sáng nay (20/8), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập”. Hội nghị nhằm tìm ra lời giải cho những thách thức đối với thị trường lao động trong thời gian qua.
 
TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Cùng với các hội nghị về phát triển thị trường vốn, hội nghị về thị trường bất động sản, Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập” cho thấy Chính phủ ra tuyên bố ổn định và phát triển các loại thị trường – một trong "4 ổn định" trong trọng tâm, chỉ đạo điều hành của Chính phủ hiện nay - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Hội nghị diễn ra dưới hình thức trực tiếp tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, kết nối đến đầu cầu 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Tham dự Hội nghị tại đầu cầu Hà Nội có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, LĐ-TB&XH, VHTT&DL, GD&ĐT, Công an, Ngân hàng Nhà nước..., Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đại diện một số doanh nghiệp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, và đại diện một số tổ chức, chuyên gia quốc tế.

Tại Hội nghị, lãnh đạo Bộ LĐTB&XH sẽ trình bày Báo cáo tình hình thị trường lao động thời gian qua; nhận diện những thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức hiện nay để đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường lao động nhanh, hiệu quả để làm cơ sở phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

Hội nghị cũng sẽ lắng nghe những kiến nghị từ cộng đồng DN do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trình bày, đề cập đến bối cảnh chịu tác động kép bởi đại dịch COVID-19 và cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến thị trường lao động Việt nam đang có nhiều thay đổi mạnh mẽ. Trong đó, hai thách thức nổi lên là: thiếu hụt lao động có kỹ năng và các thay đổi về yêu cầu kỹ năng đối với người lao động dưới tác động của việc thay đổi công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa khiến cho yêu cầu về kỹ năng của người lao động cũng thay đổi nhanh hơn, chu kỳ thay đổi cũng ngắn hơn.

Tại Hội nghị, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng kiến nghị những giải pháp để phát triển thị trường lao động, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cần hết sức chú trọng chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Bởi lẽ, con người luôn phải là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.

Hội nghị cũng là dịp để các địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia trong nước và quốc tế "hiến kế" phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 2.

Hội nghị là dịp để các địa phương, doanh nghiệp, chuyên gia trong nước và quốc tế "hiến kế" phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Theo Bộ LĐTB&XH, thị trường lao động Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng, từng bước hiện đại, đầy đủ và hội nhập quốc tế. Theo đó, khuôn khổ thể chế, chính sách ngày càng hoàn thiện; quy mô và chất lượng cung lao động tăng lên; cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực thu nhập, tiền lương của người lao động được cải thiện, năng suất lao động và tính cạnh tranh của lực lượng lao động được nâng lên.

Cụ thể, quy mô lực lượng lao động ngày càng tăng, nguồn cung được đảm bảo với trên 51,6 triệu người. Chất lượng lao động ngày càng nâng cao, tỉ lệ qua đào tạo tăng qua từng năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 26,2%. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề giải quyết việc làm được đẩy mạnh, góp phần duy trì tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước luôn dao động trong khoảng 2,2-2,3%.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ rõ, thị trường lao động nước ta còn chưa phát triển kịp với tốc độ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tính thích ứng, chủ động, linh hoạt kém, nhất là trước những "cú sốc" như đại dịch COVID-19 đã bộc lộ những bất cập như: áp lực giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động rời khỏi thị trường lao động (phần lớn là lao động tự do, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật); tình trạng khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn còn tồn tại; chưa có giải pháp để nâng tầm, khai thác và thu hút lao động tại chỗ hiệu quả; tiềm ẩn nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt lao động cho giai đoạn phục hồi và phát triển; sự thiếu hụt các kỹ năng của người lao động để duy trì việc làm hoặc chuyển đổi 2 nghề, thích ứng với tình hình sau đại dịch; thiếu cơ sở dữ liệu điện tử trong quản lý lao động, nhu cầu kỹ năng tương lai.

Tất cả Tổng thuật
11:12 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Hội nghị về phát triển thị trường lao động góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững, trong bối cảnh Chính phủ xác định 4 "ổn định" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Trong một buổi sáng thứ 7 làm việc tập trung, hiệu quả, Hội nghị đã được nghe nhiều ý kiến rất tâm huyết, trách nhiệm, sát thực tiễn về vấn đề phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Nhiều ý kiến phân tích, đánh giá rất sâu sắc và gợi ý, đề xuất định hướng, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, nhất là các tổ chức quốc tế có ý nhiều ý kiến sát thực tế Việt Nam.

Tôi hoan nghênh và đánh giá cao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu tổ chức thành công Hội nghị hôm nay trên tinh thần phát huy dân chủ. Đây là một hội nghị rất quan trọng, sau các hội nghị về thị trường vốn và bất động sản và sắp tới các hội nghị khác như về phát triển thị trường khoa học công nghệ.

Hội nghị hôm nay góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững, trong bối cảnh Chính phủ xác định 4 "ổn định" gồm: Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, trong đó có cung cầu lao động; ổn định các loại thị trường tài chính, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản và giá cả, thị trường các loại hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống người dân; ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chúng ta tổ chức các hội nghị trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và tổ chức thực hiện bài bản, lớp lang, đồng bộ.

Các ý kiến tại hội nghị đánh giá nói chung, thị trường lao động Việt Nam cơ bản phát triển tốt, ngày càng hoàn thiện, phục vụ tốt cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống người dân. Nhưng Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có nhiều vấn đề đặt ra nhưng không thể giải quyết được ngay, đó cũng là tất yếu quá trình phát triển. Chúng ta cần tiếp tục đi tìm lời giải cho những câu hỏi vẫn đang trăn trở của nhiều người.

Đó là: Vì sao một lực lượng lớn lao động chất lượng cao được đào tạo ở nước ngoài không muốn quay về nước làm việc? Vì sao thời gian gần đây có một số lao động thuộc khu vực nhà nước có xu hướng chuyển dịch ra khu vực tư nhân? Vì sao lực lượng lao động xuất khẩu của nước ta thu nhập bình quân thường thấp hơn một số nước trong khu vực, cạnh tranh quốc tế còn thấp? Vì sao người dân một số địa phương phải xa gia đình, con nhỏ, bố mẹ già, thậm chí bỏ đất đai, ruộng vườn để đi làm ở nơi khác? Vì sao đời sống của một bộ phận công nhân ở các khu công nghiệp, thành phố lớn còn khó khăn, nhất là về vấn đề nhà ở? Vì sao vẫn còn những hiện tượng đình công ở một số khu công nghiệp? Vì sao kỹ năng người lao động Việt Nam còn thấp? Vì sao chúng ta cần Chiến lược phát triển thị trường lao động bền vững khi thời điểm dân số vàng còn đang hiện hữu?

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Lao động - việc làm là vấn đề quan trọng, là một trong các cân đối lớn của nền kinh tế. Chúng ta đều biết, khi lao động trong nền kinh tế quá dư thừa, thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp cao có thể dẫn đến nhiều hệ lụy, thậm chí bất ổn xã hội, chính trị; ngược lại, nếu thiếu hụt lớn lao động, chất lượng lao động thấp… sẽ dẫn đến giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và có các hệ lụy khác. Đây là hai mặt mà chúng ta phải cân nhắc, tính toán, xử lý hài hòa trong quá trình phát triển.

Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho người lao động là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, phát triển thị trường lao động, nâng cao đời sống người dân. Đến nay, về cơ bản, thị trường lao động đã được hình thành và từng bước vận hành theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:

Thị trường lao động đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng hội nhập, từng bước tiệm cận với thị trường lao động khu vực và thế giới.

- Thể chế thị trường lao động ngày càng hoàn thiện. Hệ thống thông tin thị trường từng bước đáp ứng được yêu cầu. Quan hệ lao động được thiết lập hài hòa, công bằng, hợp lý.

- Các định chế thị trường hỗ trợ kết nối cung cầu và các định chế an sinh xã hội cơ bản được hình thành tốt. Người lao động được tạo điều kiện tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động khắc phục các rủi ro do mất hoặc giảm giờ làm việc, tai nạn lao động, mất sức lao động, nghỉ hưu…

Cung - cầu lao động được hình thành và kết nối trên các nguyên lý của thị trường, trong đó:

- Về cầu: Cùng với kinh tế tăng trưởng dương liên tục nhiều năm, cầu lao động không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu ngành, nghề theo hướng hiện đại, từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn cho người lao động. Cơ hội việc làm tăng với việc hằng năm, thị trường lao động tạo thêm việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động.

- Về cung: hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn hóa, hiện đại hóa từng bước, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của thị trường lao động để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa các cấp trình độ, từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- Thị trường lao động trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Theo số liệu gần đây, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý II năm 2022 là 50,5 triệu, tăng 504,6 nghìn người (tăng 1,01%) so với quý trước và tăng 701.800 người (tương ứng tăng 1,41%) so với cùng kỳ năm trước.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 2.

Thủ tướng trao đổi với các đại biểu tham dự Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng; đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ hơn các điểm yếu của thị trường lao động việc làm mà chúng ta cần có giải pháp khắc phục và trả lời những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Tôi cơ bản nhất trí với các hạn chế của thị trường lao động như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:

 (1) Thị trường lao động chưa theo kịp được yêu cầu phát triển KTXH, chưa thích ứng đầy đủ được với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

(2) Thể chế phát triển thị trường lao động còn bất cập; chưa có cơ chế, chính sách đầy đủ về giao dịch việc làm, quản lý chất lượng thị trường, các quy định về tiêu chuẩn lao động và quan hệ lao động.

(3) Cân đối cung - cầu lao động chưa thật hiệu quả, bền vững dẫn tới chưa tiệm cận được năng suất tiềm năng (còn thiếu - thừa lao động cục bộ, làm việc không đúng ngành nghề đào tạo…). Hệ thống thông tin thị trường chưa thực sự hoàn chỉnh. Kết nối thị trường lao động trong nước và quốc tế còn yếu.

(4) Lưới an sinh xã hội có độ bao phủ thấp, chưa đạt hiệu quả cao, mới thực hiện vai trò giá đỡ cho một phần của thị trường lao động.

(5) Giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nhân lực chất lượng cao, ngành nghề mới, kỹ năng nghề tương lai phục vụ phát triển KTXH và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế. Việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Cơ cấu thị trường lao động còn chưa hợp lý, chưa hiệu quả…

Những hạn chế trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó:

(1) Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền, nhất là người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động còn hạn chế; chưa thực sự chủ động có giải pháp hiệu quả để đảm bảo và phát triển thị trường lao động bền vững.

(2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thị trường lao động chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tế, của thị trường. Năng lực quản trị, vận hành thị trường lao động còn yếu. Thiếu cơ chế, chính sách đãi ngộ đủ hấp dẫn để giữ chân người lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là những bất cập về tiền lương.

 (3) Hệ thống trung tâm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm chưa phát huy tốt vai trò kết nối cung-cầu lao động, hỗ trợ người lao động, nhất là để vượt qua các cú sốc của thị trường. Nhiều doanh nghiệp, người sử dụng lao động chưa quan tâm đúng mức đến quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Vai trò của các tổ chức công đoàn, đoàn thể trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho người lao động còn những hạn chế nhất định.

(4) Chưa chú trọng kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động quốc tế một cách liên thông, tổng thể, bền vững, ổn định. Công tác thông tin, truyền thông đến người lao động còn hạn chế, nhiều người lao động chưa hiểu rõ, hiểu hết quyền và lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.

(5) Chưa thực sự quan tâm phát triển cơ sở dữ liệu thị trường lao động đầy đủ; công tác thống kê cập nhật phục vụ phân tích, dự báo và chỉ đạo điều hành về tình hình lao động còn hạn chế.   

Trong giai đoạn phát triển mới, chúng ta có cả những thời cơ, vận hội đan xen khó khăn, thách thức; nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Chính phủ xác định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành hài hòa, hợp lý, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả, hỗ trợ lẫn nhau giữa các chính sách tiền tệ - tài khóa; triển khai Chương trình phục hồi, phát triển KTXH (với quy mô 340 nghìn tỷ - khoảng 4% GDP), tập trung vào y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng; cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn, minh bạch. Những điều đó góp phần thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy thị trường lao động phát triển.

Chúng ta kiên định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất và hiệu quả, muốn vậy phải dựa vào con người là chính. Chúng ta muốn có những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến nhất thì chúng ta phải đào tạo thường xuyên, đầy đủ và có đột phá để có được lao động chất lượng cao, làm chủ được công nghệ. Cần có cơ chế đào tạo, cải cách tiền lương, tạo môi trường làm việc tốt để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong khu vực nhà nước, thu hút, giữ chân những lao động có trình độ, kỹ năng tay nghề cao để chính họ trở thành nguồn lực, động lực trong mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển KTXH nhanh, bền vững.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 3.

Thủ tướng phát biểu kết luận Hội nghị, nhấn mạnh nhiều giải pháp cụ thể phát triển thị trường lao động thời gian tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường lao động thời gian tới, tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đồng chí dự Hội nghị. Tôi nhấn mạnh một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ quy luật các quy luật của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi lao động là hàng hóa đặc biệt để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao. Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường lao động trong và ngoài nước.

Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...

Thứ hai, nắm bắt nhu cầu, phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu… Tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động hiện đại, minh bạch để mỗi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường lao động được quản trị minh bạch, thống nhất, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để doanh nghiệp dễ tiếp cận cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời, sát với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý dân cư.

Thứ ba, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, doanh nghiệp và nhất là người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách phải dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo tương lai.

Nhiều chỉ số của thị trường lao động như tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, số việc làm được tạo ra… là những chỉ số kinh tế vĩ mô rất quan trọng trong việc chỉ đạo, điều hành KTXH.

Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến lược, chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nhiêm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy việc tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.

Thứ năm, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động giữa thị trường trong và ngoài nước. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để người lao động hạn chế phải xa quê hương. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho công nhân, người lao động ở khu công nghiệp và các thành phố lớn. Về việc này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị về nhà ở xã hội với mục tiêu xây dựng ít nhất 01 triệu căn nhà ở xã hội cho công nhân, người thu nhập thấp đến năm 2030.

Thứ sáu, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật, kỷ cương… để hội nhập với thị trường lao động thế giới.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 4.

Thủ tướng cảm ơn và mong muốn các cơ quan, tổ chức quốc tế tiếp tục hỗ trợ về tài chính, nâng cao năng lực, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, quản lý thị trường lao động và nguồn nhân lực của Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thứ bảy, thực hiện các văn bản, quy định liên quan tới thị trường lao động, Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với con em công nhân lao động, chú trọng đào tạo cả kỹ năng nghề và kỹ năng sống. Trong nhiệm kỳ này, đang dành khoảng 2.000 tỷ đồng cho việc đào tạo, dạy nghề và dự kiến sẽ bố trí thêm. Chủ trương của chúng ta là không tiếc kinh phí cho việc này, nhưng sử dụng trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.

Thứ tám, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.  

Thị trường lao động phải phục vụ đắc lực, hiệu quả việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: "Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình".

Thứ chín, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững KTXH.

Nhân dịp này, tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn các cơ quan, tổ chức quốc tế tiếp tục hỗ trợ về tài chính, nâng cao năng lực, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, quản lý thị trường lao động và nguồn nhân lực của Việt Nam.

Sau Hội nghị hôm nay, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, với các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị; nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản chỉ đạo về tập trung nguồn lực phát triển thị trường lao động đúng hướng, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, hội nhập.

11:02 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng: Lạm phát cao chính là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập, ảnh hưởng đến đời sống của người lào động - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng: Hội nghị có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ lao động và phát triển thị trường lao động đóng vai trò quan trọng, thậm chí là quyết định đối với việc phát triển kinh tế của một quốc gia. Ngược lại, phát triển kinh tế tốt cũng là điều kiện để phát triển thị trường lao động bền vững.

Để phát triển thị trường lao động cần đồng bộ nhiều chính sách, tiếp cận trên nhiều góc độ chứ không phải riêng lẻ của một bộ ngành nào. Ví dụ, từ phía giáo dục là đào tạo nghề; đảm bảo các điều kiện để người lao động yên tâm làm việc; giải pháp chính sách về nhà ở; cân đối cung cầu lao động… là những giải pháp toàn diện để phát triển thị trường lao động.

Từ góc độ hoạt động ngân hàng, chúng tôi cũng triển khai một số khía cạnh.

Thứ nhất, bảo đảm thu nhập thực tế của người lao động rất quan trọng. Với vai trò điều hành chính sách tiền tệ, NHNN đã triển khai rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Chúng tôi cho rằng, lạm phát cao chính là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người lao động, làm ảnh hưởng đến đời sống của họ.

Vừa qua, tại Hội nghị gồm 63 ngân hàng lớn trên thế giới, các Thống đốc của các ngân hàng trung ương rất quan tâm đến những khó khăn trên thị trường lao động trong bối cảnh lạm phát cao; đánh giá nhu cầu tăng lương của người lao động trong bối cảnh lạm phát cao sẽ là một khó khăn không nhỏ của thị trường lao động.

Trong bối cảnh DN gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, NHNN đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ, tín dụng tính đến ngày 15/8 tăng 9,62 %, đóng góp rất nhiều cho việc phục hồi sản xuất kinh doanh của DN. NHNN cũng hỗ trợ tái cấp vốn cho DN để trả lương cho người lao động, giúp cả DN và người lao động vượt qua thời điểm khó khăn.

NHCSXH cũng triển khai 23 chương trình cho vay đối với hộ cận ngheo, thoát nghèo, nhà ở, xuất khẩu lao động… mang lại hiệu quả cao.

Tại Hội nghị Thủ tướng đối thoại với công nhân tại Bắc Giang vừa qua, 2 công ty tài chính đã cam kết mỗi công ty giành 10.000 tỷ đồng cho công nhân trong các KCN vay tiêu dùng. NHNN đang phối hợp với các cơ quan liên qua để triển khai, nếu làm được sẽ tiến hành nhân rộng hình thức cho vay này.

NHNH cho rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, trong đó có việc đẩy mạnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và phát triển nguồn nhân lực, cơ cấu theo từng khu vực phù hợp. Với ngành ngân hàng, lực lượng lao động chắc chắn không sử dụng rộng rãi, phổ thông mà đòi hỏi chất lượng rất cao, rất "tinh".  

Thời gian tới, các Nghị quyết của Chính phủ, các chiến lược phát triển thị trường lao động cần làm rõ cơ cấu thị trường lao động theo khu vực, khu vực nào cần lao động chất lượng cao, khu vực nào cần lao động giản đơn.

10:45 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng kiến nghị 5 giải pháp ngắn hạn và 6 giải pháp dài hạn để phát triển thị trường lao động - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: Phát triển thị trường lao động luôn được Đảng, Nhà nước coi là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đột phá, chiến lược. Bộ KH&ĐT cũng xác định việc hoàn thiện thể chế phát triển thị trường lao động là mảnh ghép hết sức quan trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị hôm nay hết sức có ý nghĩa cả trong ngắn hạn để góp phần thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, cả trong dài hạn để thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Vừa qua, Việt Nam đã nỗ lực cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, phát triển thị trường lao động, đáp ứng cung cầu lao động. Về các kết quả, hạn chế, bất cập, nguyên nhân, chúng tôi cơ bản đồng tình với báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, xin bổ sung thêm một số nội dung.

Về hạn chế của thị trường lao động, việc phân bố lao động không đồng đều giữa các vùng miền, địa phương; chất lượng lao động thấp, chỉ có hơn 26% lao động qua đào tạo, có chứng chỉ, nhất là lao động quản lý, tay nghề cao rất thiếu, không đáp ứng cho thu hút đầu tư FDI công nghệ cao; năng suất lao động rất thấp, theo các đánh giá quốc tế.

Cùng với đó, trong giai đoạn hiện nay có tình trạng mất việc làm, thiếu hụt lao động cục bộ một số địa phương và lĩnh vực.

Ngoài ra, tốc độ già hóa dân số nhanh hơn dự báo, trước đây Ngân hàng Thế giới dự báo Việt Nam bắt đầu già hóa dân số sau năm 2030 nhưng hiện nay đã diễn ra, làm giảm lực lượng lao động. Nếu chúng ta không tranh thủ, tăng tốc nhanh, với chính sách mạnh hơn để tận dụng thời cơ dân số vàng thì chúng ta "chưa giàu đã già".

Về giải pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị 5 giải pháp ngắn hạn và 6 giải pháp dài hạn.

Cụ thể, về ngắn hạn: Theo dõi, nắm bắt nhu cầu lao động, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, cung ứng lao động cho quá trình phục hồi phát triển; phát triển hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động, làm tốt công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học; giải quyết vấn đề khan hiếm lao động cục bộ; thực hiện tốt các quy định hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Nghị định 80/2021/NĐ-CP; tiếp tục triển khai hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 để phục hồi sản xuất và kinh doanh sau đại dịch.

Tiếp theo là 6 nhóm giải pháp dài hạn: Hỗ trợ doanh nghiệp tái cơ cấu lao động trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đáp ứng yêu cầu tình hình mới, huy động mạng lưới trí thức người Việt trong và ngoài nước;

Xây dựng chiến lược quốc gia phát triển nguồn nhân lực, thống nhất đầu mối quản lý đào tạo nhân lực, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế;

Đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao năng lực tự chủ của các cơ sở đào tạo nhân lực, đa dạng hóa các hình thức liên kết đào tạo, nghiên cứu giữa các cơ sở đào tạo, hiệp hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, giải quyết việc làm;

Có các chính sách để các cơ sở kinh tế phi chính thức chuyển sang khu vực chính thức;

Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin để kết nối cung cầu lao động, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số, xây dựng và phát triển kinh tế số, xã hội số.

10:38 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Đại diện Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), TS Juergen Hartwig khuyến nghị Chính phủ tiếp tục đầu tư vào các trường đại học chất lượng cao phù hợp chuẩn mực quốc tế phục vụ yêu cầu của công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong ngành công nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đại diện Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), TS Juergen Hartwig: Chương trình Việt-Đức hỗ trợ phát triển thị trường lao động và giáo dục nghề nghiệp để Việt Nam phục hồi và tăng trưởng kinh tế bền vững do Bộ Hợp tác kinh tế của Đức và các đối tác Việt Nam thực hiện.

Cải thiện thị trường lao động đòi hỏi cách tiếp cận tích hợp. Cách tiếp cận của chúng tôi như sau: Thứ nhất, các chính sách của thị trường dựa trên bằng chứng và hướng tới tương lai. Thứ hai, dịch vụ thông tin việc làm và thị trường lao động để hỗ trợ cho cung và cầu. Thứ ba, cải thiện về chất và lượng của thị trường lao động qua đào tạo và giáo dục.

Việt Nam đang trở thành một quốc gia có triển vọng phát triển rất cao trong khu vực và việc Việt Nam có thể thực hiện được điều đó hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của người lao động. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt cho năng suất lao động của Việt Nam. Người lao động tạo ra thu nhập và lương thì xác định phân phối thu nhập. Cả hai đều quyết định phúc lợi của người lao động.

Cơ cấu thị trường đang thay đổi mạnh mẽ với tốc độ nhanh, ngày càng yêu cầu nhiều loại kỹ năng hơn. Do đó, Việt Nam phải có những chính sách linh hoạt, hướng tới tương lai và dựa trên bằng chứng để có thể sớm phát triển được thị trường lao động một cách phù hợp.

Một số ưu tiên và khuyến nghị của chúng tôi như sau:

Thứ nhất, cải thiện quy định về việc làm để cho phép Chính phủ thiết kế, thực hiện, đánh giá các chính sách và chiến lược mới, hướng tới người lao động, người tuyển dụng lao động và người thất nghiệp.

Thứ hai, bằng chứng là điều quan trọng, quý vị cần phải hiểu điều gì có tác dụng và điều gì không có tác dụng.

Thứ ba, quý vị cần xây dựng kỹ năng cơ bản và kỹ năng số cho những nhà hoạch định chính sách để phân tích hiện trạng và theo đó có những chính sách phù hợp.

Thứ tư, cải thiện và số hóa thị trường việc làm để có những chính sách về thị trường lao động và kỹ năng hiệu quả.

Thứ năm, hiện đại hóa và cải thiện các dịch vụ việc làm công.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng của lực lượng lao động thông qua cải thiện chất lượng giáo dục dạy nghề, gồm cả đào tạo ban đầu và suốt đời.

Chương trình hợp tác Việc–Đức đổi mới giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam nhằm phát triển lực lượng lao động tay nghề cao của chúng tôi đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Việt Nam đã có những chương trình cải cách hệ thống lao động của mình và có cách tiếp cận mới để thúc đẩy hệ thống linh hoạt trong cộng đồng. Chương trình này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu, yêu cầu của phía Việt Nam và được các trường đại học đối tác của chúng tôi thực hiện tại giáo dục đại học. Chúng tôi đang đào tạo khoảng 5.000 người lao động để có thể giúp họ vượt qua những tác động của dịch COVID-19. Các trường đại học và doanh nghiệp, các đối tác của chúng tôi rất đa ngành nghề và thể hiện sự hiệu quả trong cách huấn luyện của chúng tôi tại Việt Nam. Chúng tôi đã hợp tác với 11 đối tác từ Bắc vào Nam để cung cấp nhân lực cho các ngành nghề như tự động hóa, điện tử, xử lý nước, năng lượng tái tạo…

Kinh nghiệm cho thấy rằng hợp tác được thể chế hóa giữa Chính phủ, nhà tuyển dụng lao động và các trường đào tạo sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Hợp tác giữa các doanh nghiệp và các tổ chức chuyên ngành, trong đó có VCCI, các cơ quan Chính phủ là điều cần thiết để có thể xây dựng chính sách chuẩn mực giúp các công ty có thể huấn luyện, đào tạo tại chỗ và nâng cao chất lượng người lao động.

Chúng tôi cũng ủng hộ việc thiết lập báo cáo chuyên ngành về tình hình lao động tại cấp tỉnh và quốc gia như VCCI đã nói.

Khuyến nghị của chúng tôi, để đạt được một hệ thống phù hợp là:

Thứ nhất, tiếp tục đầu tư vào các trường đại học chất lượng cao phù hợp chuẩn mực quốc tế phục vụ yêu cầu của công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong ngành công nghiệp.

Thứ hai, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp thông qua các hội đồng kỹ năng tại các cấp khác nhau và có cách tiếp cận toàn quốc về huấn luyện toàn diện.

Thứ ba, cung cấp học bổng và giảm học phí cho các nhóm dễ bị tổn thương và tăng cường các chương trình đào tạo, đào tạo lại và tăng cường chuyên môn để đạt được chỉ tiêu 35-40% người lao động có kỹ năng đến năm 2030.

Thứ tư, tạo điều kiện cho những người tốt nghiệp trung cấp và tốt nghiệp THPT được theo học trình độ cao đẳng thông qua mô hình 9+ (lồng ghép nội dung giáo dục phổ thông vào chương trình cao đẳng).

Chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác với quý vị trong việc đào tạo nhân lực.  

10:38 ngày 20/08/2022

 

Chủ tịch UBND Cần Thơ Trần Việt Trường: Hiện nay, mạng lưới giáo dục của Cần Thơ có 6 trường đại học, 1 phân hiệu đại học, 14 trường cao đẳng, hơn 72 cơ sở giáo dục nghề nghiệp với số lượng giáo viên và giảng viên là hơn 6.000. Quy mô đào tạo các trường cao đẳng là hơn 6.000 sinh viên, quy mô đào tạo của các trường đại học là hơn 80.000 sinh viên. Mỗi năm có khoảng hơn 20.000 sinh viên ra trường.

TP Cần Thơ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quan tâm đầu tư Trường Cao đẳng Nghề của Cần Thơ là một trong 45 trường đạt chất lượng cao của cả nước.

Trong 8 tháng đầu năm 2022, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh, đào tạo cho 36.382 người, đạt 80,85% kế hoạch, tăng 28,89% so với cùng kỳ năm 2021.

Các Trung tâm dịch vụ việc làm của Thành phố tư vấn bằng nhiều hình thức đa dạng như: Người lao động đến liên hệ trực tiếp tại trung tâm, gián tiếp qua email, điện thoại; nhóm quản trị nhân sự Cần Thơ, mạng xã hội, Cổng thông tin việc làm Cần Thơ và trực tiếp tại Ngày Gặp gỡ tuyển dụng vào thứ hai hằng tuần.

8 tháng đầu năm, Cần Thơ đã thực hiện tư vấn việc làm, chính sách việc làm, học nghề cho 102.000 người, giới thiệu việc làm trong và ngoài nước cho hơn 13.000 lượt người. Tiếp tục duy trì phiên giao dịch việc làm định kỳ. Tăng cường mở rộng các phiên giao dịch việc làm, tổ chức phiên giao dịch trực tuyến tại khu vực Tây sông Hậu, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh, thành phố lân cận. Phối hợp với các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức Ngày hội Việc làm, tư vấn kết nối rộng rãi cho các doanh nghiệp, người lao động, các em học sinh, sinh viên có cơ hội tuyển dụng lao động, tìm kiếm việc làm và định hướng nghề nghiệp trong tương lai.

Từ đầu năm đến nay, thành phố Cần Thơ  đã giải quyết việc làm cho hơn 41.387 lao động, trong đó có 207 lao động nước ngoài, đạt tỉ lệ 82,12% so với kế hoạch, tăng 78,08% so với cùng kỳ.

Thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động gặp khó khăn trong đại dịch COVID-19, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện Nghị quyết số 68 của Chính phủ, đã chi hỗ trợ cho 3.946 người sử dụng lao động với 706.208 lượt người với tổng kinh phí hơn 1.327 tỷ đồng, đạt 98,56% so với số lượng được duyệt, trong đó có 1,44% danh sách trùng đối tượng.

Kết quả chính sách hỗ trợ nhà ở cho người lao động theo Quyết định số 08 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến ngày 19/8/2022,  toàn TP. Cần Thơ có 1.600 lượt doanh nghiệp hỗ trợ cho 7.526 lượt người lao động với kinh phí hơn 30 tỷ 100 triệu đồng. Thành phố đã phê duyệt 1.062 lượt doanh nghiệp hỗ trợ cho 46.329 lượt người lao động, với kinh phí 23 tỷ 905 triệu đồng

Bên cạnh đó, TP. Cần Thơ đang xây dựng kế hoạch nhu cầu vay vốn tín dụng chính sách. Tổng nhu cầu vay vốn tín dụng ưu đãi trong 2 năm 2022,2023 của thành phố là 475 tỷ đồng, trong đó năm 2022 là 211 tỷ đồng, năm 2023 là 264 tỷ đồng.

Từ những kết quả trong thời gian qua cũng như nhu cầu phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững, TP. Cần Thơ sẽ thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm:

- Tiếp tục triển khai Chiến lược giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030; Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 11 của Chính phủ về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, Nghị quyết số 43 của Quốc hội về chính sách tài khóa tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển thị trường lao động, Quyết định số 176 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành chương trình hỗ trợ thị trường lao động đến năm 2030, phù hợp với điều kiện của Thành phố.

- Triển khai phối hợp với VCCI và các Hiệp hội DN trên địa bàn Thành phố nắm chặt nhu cầu thị trường lao động để có đổi mới nâng cao hiệu quả hoat động của các đơn vị dịch vụ việc làm và nâng cao chất lượng các sàn giao dịch việc làm kể cả trực tiếp và trực tuyến.

- Rà soát, đánh giá, sắp xếp lại tổ chức đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có tay nghề.

- Ban hành kế hoạch xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động; việc tìm người, người tìm việc của thành phố Cần Thơ nhằm phục vụ kịp thời cho công tác quản lý nhà nước về lao động việc làm, đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội và chương trình dân số quốc gia.

10:32 ngày 20/08/2022

 

Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức: TPHCM là địa phương có quy mô về lực lượng lao động rất lớn với gần 5 triệu người lao động và trong 7 tháng đầu năm 2022 có những tín hiệu tích cực đó là có hơn 430.000 người lao động tăng lên so với năm 2021.

Để bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh sau dịch, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 132 về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội TPHCM giai đoạn 2022-2025, trong đó có đề ra các giải pháp về kết nối cung cầu lao động để bảo đảm nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, triển khai các hoạt động giáo dục gắn với nhu cầu của thị trường lao động như xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Thành phố đã triển khai chính sách hỗ trợ cho người sử dụng lao động, người lao động phục hồi các hoạt động sản xuất kinh doanh, duy trì việc làm theo các Nghị quyết 68/NQ-CP, Quyết định 116/2021/QĐ-TTg, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, 28/2021/QĐ-TTg. Hiện nay Thành phố đang khẩn trương thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg.

Với sự bùng phát của dịch COVID-19, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề. Từ quý I/2022, người lao động bắt đầu quay trở lại Thành phố tìm kiếm việc làm, góp phần bổ sung nguồn lực lao động thiếu hụt cho hoạt động sản xuất kinh doanh. So với quý IV/2021, số lao động tham gia hoạt động kinh tế 6 tháng đầu năm 2022 đã tăng hơn 518.000 người, trong đó lao động ở khu vực có quan hệ lao động tăng gần 120.000 người. Đây là tín hiệu tích cực đối với thị trường lao động trên địa bàn Thành phố.

Với việc phục hồi hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, nhu cầu thị trường lao động của doanh nghiệp cũng gia tăng mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Vấn đề gặp khó khăn trong thị trường lao động đã xảy ra trong những năm vừa qua, tập trung vào một số thời điểm do nhiều nguyên nhân như:

Các tỉnh hiện nay đều có khu công nghiệp nên người lao động có nhiều lựa chọn trong tìm kiếm việc làm. Đây là tình hình chung của các tỉnh Đông Nam Bộ, trong đó có TPHCM, khi các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực may mặc giày da, điện tử, chế biến thực phẩm… hoạt động trở lại và khôi phục sản xuất.

Chính sách thu hút lao động mới tại các doanh nghiệp chưa hấp dẫn người lao động, tiền lương thời điểm bắt đầu việc làm còn thấp.

Người lao động có nhu cầu học tập nâng cao nghề nghiệp, nhu cầu nghỉ ngơi, tuy nhiên khi làm việc trong một số lĩnh vực may mặc, giày da, điện tử… bắt buộc người lao động phải làm theo ca kíp, đội nhóm nên cũng hạn chế khi thu hút người lao động vào làm việc.

Vì vậy, thời gian qua, số lượng lao động được thu hút, quay trở lại làm việc chủ yếu chỉ đủ bù đắp cho lao động đã nghỉ việc năm trước và nguồn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh sản xuất còn đang hạn chế. Từ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, Thành phố có một số đề xuất như sau:

Về phía Nhà nước, chúng tôi đề xuất: Tiếp tục làm tốt các công tác quản lý và dự báo nhu cầu nguồn nhân lực; triển khai có hiệu quả các giải pháp kết nối cung cầu nhu cầu, trong đó đẩy mạnh liên kết vùng, điều tiết cung cầu lao động, phục hồi và phát triển kinh tế xã hội.

Kết nối doanh nghiệp với hệ thống cơ sở dữ liệu nghề nghiệp, phát triển mô hình đào tạo song hành giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp, tạo cơ hội cho sinh viên được học tập, thực hành trong doanh nghiệp từ đó tạo nguồn lao động cho tương lai.

Ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp tài trợ, hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục, giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt với những ngành công nghệ cao.

Triển khai các giải pháp đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với nhu cầu xã hội. Đào tạo lại, đào tạo nâng cao thường xuyên, liên tục cho người lao động trong các khu chế xuất, khu công nghiệp và người lao động đang có việc làm trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Triển khai các giải pháp hỗ trợ người lao động yên tâm làm việc lâu dài ổn định như xây dựng các khu nhà ở, nhà lưu trú dành cho người lao động có thu nhập thấp để họ mua hoặc trả góp; xây dựng nhà trẻ, trường học cho con em người lao động; thực hiện tốt các chương trình bình ổn giá.

Về phía doanh nghiệp, cần quan tâm và chủ động có các chương trình bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động trong kế hoạch sử dụng nhân lực lâu dài. Thay đổi tư duy sử dụng nguồn nhân lực giá rẻ để đưa khoa học công nghệ, trang thiết bị hiện đại vào hoạt động sản xuất, hướng đến người lao động làm chủ công nghệ, nâng cao năng suất lao động, qua đó nâng cao mức lương chi trả cho người lao động. Chủ động tham gia đào tạo nghề cùng với các cơ sở đào tạo cho sinh viên, học sinh. Tích cực xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, nhân văn, thực hiện trách nhiệm xã hội với người lao động nhằm tạo sự gắn bó lâu dài với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. 

10:24 ngày 20/08/2022

 

Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lê Ánh Dương: Bắc Giang xác định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường lao động hội nhập là một trong các khâu đột phá. Chúng tôi chú trọng cả 5 khâu: Ban hành cơ chế chính sách về đào tạo nghề, giáo dục nghề nghiệp; phân luồng đào tạo; dạy nghề; dự báo kết nối cung cầu lao động, hỗ trợ DN tuyển dụng lao động; bảo đảm các chính sách an sinh xã hội để sẵn sàng cho làn sóng lao động nhập cư.

Trong số hơn 300.000 lao động làm việc tại các KCN, có tới 1/3 là lao động nhập cư nên tỉnh rất chú trọng các giải pháp để phát triển thị trường lao động hài hòa, bền vững.

Từ thực tế địa phương, chúng tôi cho rằng, để phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập cần chú trọng vào một số giải pháp trọng tâm.

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế hoàn thiện chính sách pháp luật về lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động.

Thứ hai, phát triển hài hòa giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, phải có sự liên thông giữa hai lĩnh vực này. Giáo dục phổ thông đã đi vào chiều sâu nhưng giáo dục nghề nghiệp chưa được quan tâm phát triển đúng mức. Cơ chế chính sách cho đội ngũ giáo viên cũng cần tương đương nhau.

Cùng với đó, cần có chính sách đào tạo nghề cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Nếu làm được sẽ đạt mục tiêu kép vì vừa nâng cao dân trí của đồng bào, tạo việc làm cho lao động nông thôn vừa xóa đói giảm nghèo bền vững.

Tôi cho rằng, giữ thị phần lao động kỹ thuật trong nước cũng là một giải pháp rất quan trọng. Cần có quy định về tỉ lệ lao động kỹ thuật giữa lao động Việt Nam và lao động nước ngoài trong doanh nghiệp. Nhiều DN đầu tư vào Việt Nam đã đưa lao động của họ vào làm việc tại các KCN.

Về phía Bắc Giang, chúng tôi đã có chiến lược đào tạo trong thời gian tới có đủ nguồn nhân lực thay thế gần 1 vạn lao động nước ngoài đang làm việc trong các KCN.

Chính phủ cũng cần đầu tư mạnh mẽ hơn cho hệ thống các trường nghề, nhất là các trường nghề đào tạo trình độ cao đẳng. Trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp, các trường nghề đào tạo trình độ cao đẳng đem lại hiệu quả cao và rõ ràng.

Cuối cùng, cần sớm có cơ chế để các DN, nhất là DN đầu tư nước ngoài, tham gia vào việc đào tạo cấp chứng chỉ đào tạo nghề cho người lao động. Thực tế các DN vẫn đào tạo cho người lao động tại DN nhưng cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện nên chưa có chứng chỉ được công nhận. Khi có cơ chế, các DN có công nghệ mới, kỹ thuật mới có thể tham gia đào tạo nghề cho lao động tại địa phương, tạo nên chuỗi giá trị bền vững.

10:16 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang: Cần thiết đầu tư hạ tầng cơ bản để phục vụ cho người lao động tại những nơi thị trường lao động có hướng phát triển - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang: Trong bối cảnh sau Tết Nguyên đán 2022, các doanh nghiệp có hiện tượng thiếu hụt lao động, Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc để nắm bắt tình hình và đề xuất giải pháp khắc phục thiếu hụt lao động ở các địa phương, sau đó cũng đã có văn bản gửi ý kiến nghị, báo cáo với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời cũng đã chỉ đạo toàn bộ hệ thống Công đoàn triển khai đồng bộ giải pháp để chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, góp phần ổn định và phát triển kinh tế-xã hội.

Với vai trò, trách nhiệm của tổ chức đại diện cho người lao động, thời gian qua các cấp Công đoàn quan tâm, triển khai nhiều hoạt động, giải pháp thiết thực để chăm lo đời sống và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động như: Các cấp Công đoàn đã chủ động phối hợp với các cơ quan đề xuất, hoàn thiện các chính sách liên quan đến người lao động, bám sát, nắm tình hình, kịp thời giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách đối với người lao động, nhất là trong thời kỳ dịch COVID-19.

Các cấp Công đoàn cũng đã tập trung chăm lo cho người lao động ngay tại cơ sở, nhất là người lao động gặp khó khăn, bị tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, đặc biệt là dịp Tết.

Tổng Liên đoàn cũng tiếp tục phát huy vai trò đại diện của người lao động trong Hội đồng Tiền lương quốc gia để tham gia trình Chính phủ Nghị định 38 tăng tiền lương tối thiểu; phối hợp trong việc giám sát, thực hiện các quy định về hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách hỗ trợ người lao động như tiền thuê nhà…; có ý kiến với các doanh nghiệp, đơn vị và lãnh đạo các tỉnh, ngành tháo gỡ khó khăn, giải quyết chế độ cho người lao động.

Trước tình hình quan hệ lao động có diễn biến phức tạp, các cấp Công đoàn cũng thực hiện các giải pháp trong việc phòng ngừa các tranh chấp lao động ngừng việc tập thể, tập trung tuyên truyền người lao động, người sử dụng lao động đồng hành, chia sẻ khó khăn và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt thoả ước lao động tập thể…

Để phát triển thị trường lao động theo đúng tiêu đề hôm nay, Tổng Liên đoàn xin kiến nghị như sau:

Trước mắt đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo triển khai quyết liệt chính sách hỗ trợ cho người lao động đã được ban hành trong thời gian qua theo những mốc Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã ấn định, bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả, cấp thiết của những chủ trương, chính sách nhân văn đã ban hành.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nghề, giúp cung cấp lượng lớn lao động có tay nghề kịp thời cho các doanh nghiệp thiếu hụt sau dịch, đặc biệt đối với những lĩnh vực: May mặc, giầy da, điện tử… Chú trọng đào tạo theo các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp.

Các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương chú trọng hơn nữa trong kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về lao động, để kịp thời ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật lao động về quyền lợi của người lao động như tiền lương, việc nghỉ ngơi, công tác an toàn vệ sinh lao động…

Về lâu dài, đây là thị trường đặc biệt liên quan đến người lao động nên cũng phải tuân thủ theo các quy luật khách quan, bảo đảm sự can thiệp của Nhà nước vì liên quan đến người lao động, đối tượng rất đặc biệt trong thị trường.

Cần có dự báo phát triển của thị trường, nhất là ở những ngành mũi nhọn, trí thức cao, qua đó phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chính sách thu hút đầu tư… từ đó kịp thời hoạch định các chương trình, mục tiêu đặt ra để cung ứng lao động cho thị trường.

Xây dựng dữ liệu thông tin phục vụ thị trường. Chúng ta hiện nay mới chỉ tập trung công khai, quảng bá những dự án có số vốn đầu tư, số lượng sản phẩm bao nhiêu nhưng ít khi công bố thông tin về nhu cầu lao động của từng dự án, để có hướng đào tạo lao động, đáp ứng nhu cầu.

Cần thiết đầu tư hạ tầng cơ bản để phục vụ cho người lao động tại những nơi thị trường lao động có hướng phát triển như ở các tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp. Đây là năng lực cạnh tranh, bảo đảm sự an tâm, quyền lợi chính đáng của người lao động khi tham gia thị trường lao động như nhà ở, khu khám chữa bệnh, khu vui chơi cho con em họ…

Phải có đào tạo kỹ năng, có khung chương trình đạo cơ bản, tăng thời gian thực hành, có thời gian nhất định để học về chính trị, Nhà nước, giai cấp, bồi dưỡng, nâng cao giác ngộ chính trị cho công nhân và người lao động.

Cần có bàn tay của Nhà nước trong việc điều tiết, tránh cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

10:08 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Ông Bùi Sỹ Lợi: Cần phát triển thị trường lao động theo các tiêu chí: "Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả" - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tham dự và phát biểu tại Hội nghị, chuyên gia, TS. Bùi Sỹ Lợi cho rằng thị trường lao động Việt Nam cho đến nay còn một số hạn chế: Cơ bản chúng ta chưa bắt kịp được các chuẩn mực kinh tế thị trường một cách linh hoạt, bền vững, hiện đại, hội nhập và hiệu quả. Điều này thể hiện trên 4 vấn đề chính.

Thứ nhất là thị trường lao động phát triển nhưng chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết việc làm một cách bền vững.

Thứ hai là thị trường lao động có sự phân mảng giữa các vùng, khu vực mà tác động của dịch COVID-19 là biểu hiện lớn nhất cho thấy sự mất cân đối cung cầu lao động một cách cục bộ.

Thứ ba là quan hệ cung cầu lao động trên thị trường chưa phù hợp cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Chúng ta không quan tâm đến cơ cấu nên có thể đào tạo nhưng lại không sử dụng được vì không đào tạo theo nhu cầu của thị trường.

Thứ tư là vấn đề yếu nhất của Việt Nam hiện nay: Kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường chưa hiện đại, đó chính là công nghệ thông tin. Chúng ta bàn đến hỗ trợ người bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 nhưng không chủ động được để cung ứng gói an sinh xã hội đến người dân, điều này rất đáng suy nghĩ khi chúng ta thực hiện chính sách về lao động.

Ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng nên xác định rõ quan điểm, định hướng và thống nhất một số nhận định, phát triển thị trường lao động theo các tiêu chí: "Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả".

Đai hội XIII của Đảng đã khẳng định chủ trương phát triển thị trường lao động hướng đến việc làm bền vững. Theo đó, mục tiêu phát triển thị trường lao động chính là việc làm bền vững, thể hiện qua 6 yếu tố: Cơ hội người lao động có việc làm; điều kiện làm việc; năng suất lao động; bình đẳng; an toàn tại nơi làm việc; thu nhập thoả đáng và bảo đảm BHXH, BHYT.

Để thị trường lao động đạt được 5 yếu tố "Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả", ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng cần vận hành hiệu quả với thị trường vốn, đất đai, hàng hoá, dịch vụ, thông tin, giảm thiểu các rào cản với người lao động. Quan trọng nhất là thu hẹp được việc làm của khu vực phi chính thức. Điều này không có nghĩa là chuyển ồ ạt lao động của thị trường phi chính thức sang chính thức mà chuyển dần từng bước và có điều kiện.

Giải thích về yếu tố "Linh hoạt", ông Bùi Sỹ Lợi nêu 3 yếu tố: Hoạt động theo quy luật khách quan, có vai trò điều tiết của Nhà nước; đa dạng các hình thức kết nối cung cầu lao động; thị trường lao động hiện nay đang chuyển sang thị trường cao hơn về chất lượng, vì vậy phải cơ cấu lại cho hợp lý.

"Hiện đại" thể hiện ở 3 vấn đề: Vận hành hiệu quả theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường; quan hệ lao động phải hài hoà, ổn định, tiến bộ; phát triển thị trường lao động Việt Nam nhằm đạt tới khả năng vận hành đồng bộ, thông suốt và hiệu quả trên phạm vi cả nước, khu vực và thế giới.

"Hiệu quả" thể hiện ở thị trường lao động phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản về quyền của con người theo quy định của Hiến pháp; thị trường lao động phải điều tiết, phân bổ hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội, giảm thiểu thất nghiệp và bảo đảm việc làm bền vững; chính sách và thể chế thị trường lao động phải đồng bộ và đủ mạnh để tạo môi trường mở rộng, nâng cao chất lượng việc làm và năng suất lao động.

Ông Bùi Sỹ Lợi nêu, lao động là hàng hoá rất đặc biệt, khác với hàng hoá thông thường khác; thị trường lao động là nơi mua bán lao động theo giá cả lao động nên phải có yếu tố sản xuất đặc biệt và vận hành khách quan, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác; thị trường lao động phải tác động điều hoà quan hệ về cung cầu lao động trong nền kinh tế thị trường và phải vận hành ổn định cùng thị trường vốn, hàng hoá, dịch vụ để tạo nền tảng tăng trưởng.

10:00 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Bà Caitlin Wiesen, quyền Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP) tại Việt Nam tái khẳng định cam kết của Liên Hợp Quốc tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ với Chính phủ Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bà Caitlin Wiesen, quyền Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP) tại Việt Nam: UNDP cảm ơn những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong bảo vệ sức khỏe của người lao động trong thời điểm đại dịch COVID-19. Đặc biệt, với việc triển khai tiêm vaccine nhanh chóng đã giúp cho các ngành nghề, du lịch sớm mở cửa trở lại và hồi phục kinh tế. Đây đều là những tín hiệu tích cực cho thị trường lao động Việt Nam.

Từ phía Liên Hợp Quốc (LHQ), chúng tôi muốn tập trung đề cập đến tăng cường phúc lợi cho người lao động. Chúng tôi thấy, cơ chế BHXH vẫn còn một số hạn chế vì những người làm việc trong các doanh nghiệp không chính thức chiếm đến 80% lại không tham gia tình nguyện vào cơ chế BHXH. Điều này do một số yếu tố có thể do thiếu hợp đồng lao động chính thức hoặc không đăng ký chính thức trong hệ thống BHXH.

Mặt khác, lao động trong các hộ kinh doanh nhỏ, trong lĩnh vực nông nghiệp không bị bắt buộc đăng ký vào cơ chế BHXH. Qua đó cho thấy, những chính sách phát triển thị trường lao động còn thiếu chính sách bảo vệ cần thiết cho người lao động đối với những khủng hoảng lớn như COVID-19 chúng ta thấy nhiều người dân vật lộn với sinh kế của mình ở lĩnh vực xây dựng, thủy sản… Họ không tìm được cơ hội việc làm khác. Hay những người làm trong lĩnh vực dịch vụ như lái xe, buôn bán lẻ hoặc những ngành nghề liên quan không được liệt kê trong những cơ chế bảo hộ.

Chúng ta còn thiếu biện pháp để bảo vệ hiệu quả cho các nhóm bị tổn thương ngoài các biện pháp đã có như bảo hiểm thất nghiệp hay những trung tâm dịch vụ cộng đồng. Vì biện pháp hiện có chưa có chức năng trung gian giúp người lao động tìm việc mới, tìm việc thay thế trong bối cảnh khủng hoảng. Những cơ chế tiếp cận các dịch vụ khi bị thất nghiệp cũng chưa phát huy được hiệu quả. Chúng ta biết rằng, phần lớn lao động Việt Nam đang làm việc cho những doanh nghiệp không chính thức. Có dưới 1/4 lao động Việt Nam hiện nay có hợp đồng lao động chính thức và nhiều người làm việc không có đăng ký, không có hợp đồng lao động.

Tuy nhiên chúng tôi hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam đã hỗ trợ cho lao động tuổi cao hoặc trong một số ngành nghề khác.

UNDP muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Chính phủ trong việc phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập. Chúng ta cần tiếp tục nỗ lực cung cấp việc làm linh hoạt, hiện đại cũng như có những biện pháp bảo vệ hiệu quả nhằm ứng phó với những cú sốc từ bên ngoài trong những giai đoạn nền kinh tế gặp khủng hoảng lớn.

UNDP có 5 khuyến nghị:

- Về lao động: Có những chính sách tạo việc làm mới cũng như chuyển dịch lao động nhằm bảo vệ các nhóm bị tổn thương như người khuyết tật, dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em. Tạo thêm cơ hội cho lao động nữ, đặc biệt trong khu vực công vì phụ nữ hiện nay vẫn đang làm ở lĩnh vực có thu nhập thấp.

- Đối với đầu tư công, thúc đẩy và tạo ra việc làm mới, đầu tư ứng phó với biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo sẽ mang lại lợi ích trong ngắn hạn và dài hạn.

- Đào tạo nghề, đào tạo suốt đời mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Nên xây dựng thêm các Trung tâm đào tạo nghề để đáp ứng những nhu cầu mới trong lĩnh vực công nghiệp, đồng thời nên mời gọi các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo.

- Thu hẹp khoảng cách về giới, hỗ trợ thêm những chương trình bảo hiểm bởi đây là chương trình đóng vai trò quan trọng để hỗ trợ cho phụ nữ hoặc nam giới tạm thời nghỉ việc để chăm lo gia đình; có gói hỗ trợ cho người khuyết tật, dân tộc thiểu số…

- Cần hỗ trợ cho những hộ gia đình dễ bị tổn thương trong khủng hoảng kinh tế hoặc chịu những cú sốc từ bên ngoài trong trường hợp họ tạm thời giúp việc, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.

Chúng tôi tái khẳng định cam kết của Liên Hợp Quốc tiếp tục làm sâu sắc hơn quan hệ với Chính phủ Việt Nam, qua đó hiện thực hóa tầm nhìn, trong đó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã đưa ra thông điệp thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhưng không hy sinh lợi ích và phúc lợi của người dân.

09:31 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Ingrid Christensen khuyến nghị Chính phủ Việt Nam tiếp cận chính thức hóa lực lượng lao động, thị trường lao động một cách toàn diện nhất có thể - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Ingrid Christensen: Chủ đề của hội nghị hôm nay gắn kết với sứ mệnh cốt lõi của ILO cũng như là nội dung chính trong chương trình làm việc của ILO với Chính phủ Việt Nam và các đối tác xã hội trong hai thập kỷ qua.

Việt Nam là câu chuyện thành công của thế giới về chuyển đổi cơ cấu, đạt được thành tựu phát triển kinh tế và chuyển dịch lao động.

Thị trường lao động là một kênh giúp thúc đẩy tăng trưởng bền vững và bao trùm. Tăng trưởng bền vững phải dựa vào tăng trưởng năng suất, trong đó, năng suất lao động là một khía cạnh quan trọng, bởi năng suất lao động gắn với gia tăng thu nhập.

Tăng trưởng năng suất lao động một phần dựa trên phát triển nguồn nhận lực. Ở Việt Nam, các công việc đòi hỏi kỹ năng cao chiếm khoảng 12% tổng số việc làm. Việt Nam hướng đến trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 cũng đồng nghĩa với việc số lượng việc làm yêu cầu kỹ năng cao cũng nhiều gấp đôi. Sẽ có lúc Việt Nam đáp ứng được nhu cầu này bởi số lượng công việc đòi hỏi trình độ kỹ năng cao đang tăng nhanh gấp 3 lần tổng số việc làm. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra là: Những công việc này sẽ đòi hỏi những kỹ năng gì? Chúng ta sẽ thực hiện dự báo các kỹ năng mà nền kinh tế cần như thế nào?

Dự báo kỹ năng là một hoạt động quan trọng nhưng chỉ hỏi "kỹ năng gì" lại chưa đủ. Các quốc gia thành công nhất trong việc tháo gỡ các rào cản này thường sử dụng các phương pháp tiếp cận theo ngành và có các thể chế ba bên để quản trị việc phát triển kỹ năng. Các phương thức này tạo ra đối thoại giữa bên hiểu rõ nhất về các kỹ năng đang rất cần trên thị trường (doanh nghiệp) và những người lãnh đạo hệ thống, những người quản lý, cung cấp và chứng nhận các kỹ năng này (Nhà nước).

Việt Nam hiện đang thí điểm các hội đồng kỹ năng nghề quốc gia. Chúng tôi khuyến nghị Việt Nam tiếp tục hoạt động này và thành lập thêm các hội đồng kỹ năng nghề trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Tuy nhiên, các cấu trúc này chỉ có hiệu quả nếu bên sử dụng lao động tham gia vào và dẫn dắt các đối thoại để xác định nhu cầu, nếu người lao động có tiếng nói thực sự. Chiến lược Phát triển đào tạo nghề năm 2021- 2030 là một bước quan trọng nhưng quá trình thực hiện cũng cần phải gắn kết chặt chẽ với các nguyên tắc và nguồn lực trên.

Năng suất lao động cũng phụ thuộc vào các thể chế và chính sách thị trường lao động, đặc biệt khi Việt Nam đang tiến đến một giai đoạn phát triển mới, nên những thể chế và chính sách này cũng phải thay đổi theo. Trong bối cảnh đó, vai trò của Nhà nước là đảm bảo các thị trường vận hành trơn tru và có một môi trường kinh doanh thuận lợi, đảm bảo các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động.

Thị trường lao động của Việt Nam thể hiện rõ đặc tính nhị nguyên. Bên cạnh nhóm lao động trình độ kỹ năng cao có việc làm chính thức, còn có một bộ phận khác gồm những người lao động có kỹ năng thấp làm các công việc phi chính thức năng suất thấp. Lao động có việc làm phi chính thức đã giảm đáng kể ở Việt Nam trong 15 năm qua nhưng vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong số lao động có việc làm. Tỉ lệ phi chính thức cao nghĩa là hầu hết người lao động Việt Nam kiếm sống dựa vào các hoạt động có năng suất thấp, tạo ra thu nhập thấp và không có bất kỳ sự bảo hộ nào. Sự tăng trưởng dựa vào một thị trường lao động trong đó có hơn 60% lao động không có tiếp cận an sinh xã hội sẽ không bền vững, đặc biệt là trong một xã hội đang có sự già hóa về dân số như Việt Nam.

Chính phủ đã thể hiện cam kết mở rộng bao phủ an sinh xã hội thông qua nhiều chính sách, mới nhất là Chỉ thị 20 về an sinh xã hội và đang sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội.

Tuy nhiên, vấn đề phi chính thức không chỉ gói gọn trong khả năng tiếp cận an sinh xã hội. Khi bộ phận này của thị trường lao động vẫn đang có năng suất thấp, trình độ kỹ năng thấp, làm các công việc được trả công thấp, thì Việt Nam sẽ không thể tận dụng tối đa tiềm năng về năng suất lao động của mình. Tôi khuyến nghị Chính phủ Việt Nam tiếp cận chính thức hóa một cách toàn diện nhất có thể, và thiết lập các cơ chế điều phối liên bộ ngành. Chính thức hóa là hoạt động quan trọng, giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mình.

Việt Nam đang tiến hành sửa đổi Luật Việc làm, đạo luật quy định chức năng và nhiệm vụ của các tác nhân và thể chế của thị trường lao động. Trong cuộc họp đầu tiên của tôi với Bộ LĐTB&XH về hoạt động này, tôi đã được nghe về định hướng hiện đại hóa Luật Việc làm phù hợp với thực tiễn thị trường lao động. Chúng tôi khuyến nghị một số định hướng cụ thể:

Thứ nhất, Luật Việc làm cần đưa ra được hướng dẫn đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc thúc đẩy tạo việc làm, bao gồm cả các lĩnh vực liên quan đến phát triển kỹ năng được quy định trong luật, cũng như quyền và trách nhiệm của người tìm việc.

Thứ hai, Luật Việc làm cần có sự linh hoạt để có thể định kỳ sửa đổi các ưu tiên về thị trường lao động, để có thể bắt kịp các thay đổi diễn ra trên thị trường. Luật cũng có thể quy định về thành lập một cơ chế ba bên, chẳng hạn như ủy ban việc làm, để thực hiện nhiệm vụ này.

Thứ ba, khi các vấn đề về biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trong, chúng ta cần phải có hành động chiến lược để chuyển dịch công bằng hướng đến một nền kinh tế và một xã hội bền vững hơn về môi trường.

Ngài Thủ tướng cũng đã từng nói "chúng ta chắc chắn không chấp nhận mô hình "phát triển trước và dọn dẹp sau"; không chấp nhận phương thức phát triển bằng mọi giá mà không bền vững". Các hành động này bao gồm các quy định, sự khuyến khích, các chiến lược đầu tư công, cũng như việc kích hoạt các chính sách về thị trường lao động và an sinh xã hội. Sự chuyển dịch phải được quản lý theo hướng tôn trọng các tiêu chuẩn về lao động, thông qua tham vấn ba bên và xây dựng sự đồng thuận.

Cuối cùng, Luật Việc làm cần phải định hướng chung cho sự phát triển thị trường lao động và hoạt động thúc đẩy tạo việc làm ở Việt Nam. Định hướng này phải bao trùm cả vai trò của di cư, an sinh xã hội, giới, kỹ năng và cũng cần phải liên kết với thương mại, chính sách công nghiệp, công nghệ, năng suất, bảo vệ môi trường trong mối liên kết với việc làm xanh và các lĩnh vực khác.

09:24 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Đại diện Ngân hàng Thế giới (WB): Hiện tại, Việt Nam đứng thứ 116/141 nước về kỹ năng của học sinh tốt nghiệp trong Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu

Đại diện Ngân hàng Thế giới (WB): Việt Nam luôn coi trọng giáo dục phổ thông, tuy nhiên hệ thống giáo dục của Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng để có thể tận dụng được hết tiềm năng của thanh thiếu niên tốt nghiệp phổ thông.

Tôi xin được đưa ra một số thách thức và một số giải pháp về vai trò của việc làm, kỹ năng và giáo dục cao học đối với việc đạt được phát triển bền vững của Việt Nam.

Đầu tiên, hãy nhìn vào bối cảnh hiện tại. Việt Nam có lực lượng lao động có kỹ năng chưa được cao. Đây là vấn đề của giáo dục đào tạo nghề bậc trung cấp và cao học. Về kỹ năng của lao động, hiện tại, Việt Nam đứng thứ 116/141 nước về kỹ năng của học sinh tốt nghiệp trong Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu, thấp hơn nhiều so với một số nước, trong đó có Singapore đứng thứ 79.

Năm 2019 đã có cuộc điều tra trong các doanh nghiệp của Việt Nam, cho thấy nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng người lao động có chất lượng. 73% doanh nghiệp có báo cáo rằng họ gặp khó khăn trong  tuyển dụng những lao động cho vị trí quản lý, 61% gặp khó khăn để tuyển dụng người lao động có kỹ năng phù hợp. Con số này cho thấy có khoảng cách lớn giữa cung và cầu lao động Việt Nam như chúng ta đã lắng nghe từ các đại biểu.

Trong bảng điều tra về lao động Việt Nam năm 2020, chỉ rất ít đơn vị của Việt Nam hoàn tất giáo dục đào tạo nghề thuộc giáo dục cao học. Điều này do người Việt chưa được tiếp cận với giáo dục cao học. Tỉ lệ lao động tốt nghiệp đại học và cao học ở Việt Nam khoảng 26,8%, thấp hơn con số 51,3% của các nước thu nhập trung bình.

Về kỹ năng, 17% lao động Việt Nam có bằng đại học và trên đại học, phần còn lại trung bình lao động được đào tạo trong vòng 8 năm. Việt Nam muốn tăng cường chất lượng lao động tới năm 2050 nhưng với đà này thì chỉ 15% lực lượng lao động được tiếp cận giáo dục đại học vào năm 2030, thấp hơn nhiều so với các quốc gia ở châu Á khác.

Việc làm và nhu cầu việc làm đang thay đổi nhanh chóng. Điều tra việc làm Việt Nam 2020 cho thấy việc làm đơn giản ngày càng giảm và việc làm trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng cao và chuyên sâu hơn. Để giải quyết vấn đề này, tôi có 5 gợi ý:

Thứ nhất là cải thiện hệ thống lao động để số lượng lao động tốt nghiệp cao học cao hơn, đáp ứng yêu cầu của người tuyển dụng lao động.

Thứ hai, tăng cường chất lượng lao động để họ có đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời mình.

Thứ ba, đào tạo lao động là học sinh về những kỹ năng mới như kỹ năng số, kỹ năng xã hội, kỹ năng học tập chất lượng cao và kỹ năng xanh…

Thứ tư, tương tác với doanh nghiệp để họ tham gia vào quá trình đào tạo nghề, tăng cường mối quan hệ liên kết với các doanh nghiệp trong thiết kế các chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng lao động. Một số sáng kiến này đã được thực hiện nhưng cần phải có hệ thống. Đó là thử việc và tư vấn với các doanh nghiệp để người lao động có thể thích nghi nhanh với sự thay đổi của thị trường lao động. Cần xác định hạn chế chính mà các doanh nghiệp phải đối mặt để tìm kiếm các giải pháp xử lý vấn đề này cũng như trong các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo nghề cho người lao động.

Thứ năm, đầu tư vào hệ thống thông tin việc làm tích hợp giữa người lao động, người tuyển dụng lao động, các cơ sở đào tạo để họ có thể đề nghị người lao động phải đưa ra những quyết định phù hợp đối với sự nghiệp của mình.

Đề nghị Việt Nam tiếp tục tăng cường chất lượng của giáo dục đào tạo để phục vụ cho nhu cầu việc làm cũng như tương lai của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng nên đóng vai trò linh hoạt hơn trong vấn đề này để giúp Việt Nam đạt được tham vọng.

09:15 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Nguyễn Văn Thân đề xuất có giải pháp tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động trong nước và ngoài nước - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Nguyễn Văn Thân đánh giá cao các chính sách và giải pháp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong thời điểm dịch COVID-19 đã có những chỉ đạo rất kịp thời để doanh nghiệp vượt qua đại dịch, bảo đảm cung cầu lao động vừa qua trong bối cảnh doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Sau đại dịch đã có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập mới.

Ông Nguyễn Văn Thân cho biết, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98% trong khoảng 800.000 doanh nghiệp, thu hút khoảng 60% lao động.

Tuy nhiên ông Nguyễn Văn Thân cho rằng, hiện nay, nhu cầu lao động của các doanh nghiệp rất lớn, đề nghị một số nội dung như nghiên cứu chế độ tiền lương phù hợp với lao động tay nghề cao, tư duy đột phá để giữ chân họ.

Ông Nguyễn Văn Thân ủng hộ ý kiến của VCCI là xem xét, nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nếu chứng minh được việc thực hiện đào tạo, đào tạo lại cho người lao động (thay vì chứng minh chi phí bằng hóa đơn chứng từ phức tạp như hiện nay thì nên nghiên cứu cho doanh nghiệp được giảm thuế tương tự như trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người khuyết tật…).  Hiện tại, Luật Giáo dục nghề nghiệp chỉ quy định các ưu đãi cho doanh nghiệp có thành lập trung tâm/trường/cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc doanh nghiệp và các cơ sở này phải hoạt động như một đơn vị đào tạo chuyên nghiệp.

Có giải pháp tạo thuận lợi cho dịch chuyển lao động trong nước và ngoài nước, khuyến khích lao động học nghề, đào tạo, xuất khẩu lao động ở nước ngoài về nước làm việc, phát triển nhà ở xã hội cho họ về nước an cư lạc nghiệp.

Nghiên cứu mô hình trả lương linh hoạt, ví dụ có thể người lao động ứng trước một khoản lương khi cần để tránh tình trạng vay nặng lãi, tín dụng đen; nghiên cứu phát triển các đô thị công nghiệp như nhiều nước đã làm để tạo thuận lợi cho người lao động sinh sống, làm việc.

09:08 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Phạm Tấn Công đề nghị Chính phủ có những quy định hướng dẫn đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Phạm Tấn Công: Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam phấn khởi, ghi nhận và đánh giá cao chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau khi được ban hành đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành và địa phương triển khai. Cho đến nay đã thu được những kết quả rõ nét trong phục hồi kinh tế đất nước sau đại dịch, giúp cộng đồng doanh nghiệp lấy lại được nhịp độ tăng trưởng mới, đồng thời mang lại sự khởi sắc của thị trường lao động Việt Nam.

Thời điểm này, cách đây 1 năm các doanh nghiệp đang gồng mình thực hiện 3 tại chỗ, cũng nhiều doanh nghiệp đóng cửa, lực lượng lao động rời các nhà máy, xí nghiệp về quê lớn chưa từng có. Đến hôm nay, tình hình đã đổi khác, tốt hơn rất nhiều, cộng đồng doanh nghiệp trân trọng cảm ơn Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cùng các địa phương.

Cùng với việc phục hồi kinh tế, bức tranh quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động cũng có thay đổi lớn. Dưới tác động kép bởi đại dịch COVID-19 và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thị trường lao động Việt Nam đang có nhiều thay đổi mạnh mẽ, trong đó nổi lên hai thách thức lớn. Đó là: (1) Thiếu hụt lao động có kỹ năng, và (2) các thay đổi rất nhanh về yêu cầu kỹ năng đối với người lao động dưới tác động của việc thay đổi công nghệ, đặc biệt là tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển đổi số. Các thay đổi nói trên khiến cho việc khớp nối cung cầu trên thị trường lao động ngày càng khó hơn, nhất là ở những vị trí, yêu cầu kỹ năng cao.

Báo cáo PCI 2021 do VCCI thực hiện cũng phản ánh, đánh giá về chất lượng lao động tại các địa phương từ góc nhìn của doanh nghiệp FDI tương đồng với nhận định trên. Đó là: Khi doanh nghiệp có kế hoạch tuyển dụng thay thế hoặc mở rộng, nhóm lao động mà các doanh nghiệp có thể dễ dàng tuyển dụng hơn cả là công nhân, lao động phổ thông (62%). Tiếp đến là nhóm kế toán (42%), cán bộ kỹ thuật (25%) và quản lý, giám sát (20%). Nhóm lao động có mức độ khó nhất khi tuyển dụng là giám đốc điều hành (15%).

Thách thức nói trên cũng là nút thắt của doanh nghiệp Việt Nam trong phục hồi và phát triển, cũng như là nguy cơ Việt Nam sẽ để mất cơ hội thu hút dòng đầu tư FDI dịch chuyển sau đại dịch COVID-19 và các biến động của chính trị quốc tế.

Trên thực tế, Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn dân số "vàng" nhưng chất lượng lao động lại chưa phải là "vàng". Tỉ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ chỉ đạt 26,1%; cơ cấu lao động phần lớn có kỹ năng hạn chế, thu nhập thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng và thị trường. Việc thay đổi kỹ năng của lao động phụ thuộc vào công tác đào tạo nhưng sự thay đổi chương trình đào tạo chính quy tại các trường giáo dục nghề nghiệp luôn có độ trễ so với nhu cầu trên trị trường lao động. Vì vậy, các chương trình đào tạo ngắn hạn trực tiếp tại doanh nghiệp được coi là một trong những giải pháp tối ưu để có thể giải quyết vấn đề thiếu hụt về kỹ năng lao động hiện tại.

Trong thời gian vừa qua, doanh nghiệp tại nhiều ngành nghề đã thực hiện các chương trình nội bộ, bao gồm cả các ngành nghề thâm dụng lao động cho đến các ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao và những ngành nghề mới thực hiện việc tự đào tạo, trang bị kỹ năng cho người lao động thông qua các chương trình đào tạo nội bộ của riêng mình.

Để khắc phục hạn chế trến, VCCI có một số kiến nghị:

Thứ nhất, trước mắt, chính sách hỗ trợ đào tạo để duy trì việc làm cho người lao động khi gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 cần linh hoạt hơn trong cơ chế phối hợp giữa đơn vị sử dụng lao động với cơ sở giáo dục nghề nghiệp bảo đảm các phương án phù hợp với nhu cầu vị trí việc làm của doanh nghiệp. Kéo dài thời gian thực hiện chính sách và điều chỉnh các điều kiện để có thêm nhiều doanh nghiệp và người lao động được tham gia. Tổng kinh phí dự kiến chi cho chính sách này là 4.500 tỷ đồng được trích từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Mặc dù được triển khai từ 1/7/2021, hạn cuối để các doanh nghiệp nộp hồ sơ là 30/6/2022, nhưng qua 1 năm, rất ít doanh nghiệp đăng ký tham gia và mới chỉ 17 tỉnh, thành phố phê duyệt cho 57 đơn vị, hỗ trợ đào tạo để duy trì việc làm cho gần 12.000 lao động. Một con số rất khiêm tốn so với mục tiêu 4.500 tỷ đồng đề ra để thực hiện chính sách.

Thứ hai, đề nghị Chính phủ xem xét có những quy định hướng dẫn về đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp (thời gian, nội dung, yêu cầu về giáo viên và cơ sở vật chất), có cơ chế hợp tác giữa nhà trường-cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp trong việc xây dựng và thẩm định chương trình đào tạo tại doanh nghiệp cũng như ban hành cơ chế công nhận về mặt văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận cho người lao động được đào tạo tại doanh nghiệp. Điều này vừa tạo điều kiện cho phát triển thị trường lao động linh hoạt vừa khuyến khích người lao động liên tục học tập trau dồi kỹ năng để đạt được những vị trí và cơ hội nghề nghiệp tốt hơn. Đồng thời khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện và đầu tư thỏa đáng vào việc đào tạo kỹ năng cho người lao động một cách căn cơ, toàn diện.

Thứ ba, Quốc hội, Chính phủ xem xét có ưu đãi giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp thực hiện các chương trình đào tạo nội bộ tại doanh nghiệp đáp ứng đúng tiêu chuẩn về đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp. Hiện tại, Luật Giáo dục nghề nghiệp chỉ quy định các ưu đãi cho doanh nghiệp có thành lập trung tâm/trường/cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc doanh nghiệp và các cơ sở này phải hoạt động như một đơn vị đào tạo chuyên nghiệp. Điều này hạn chế và bỏ sót một hình thức đào tạo phổ biến của phần lớn các doanh nghiệp hiện nay là chương trình đào tạo nội bộ cho người lao động của doanh nghiệp.

Thứ tư, tăng cường hiệu quả hợp tác doanh nghiệp, nhà trường. Ở đây có kinh nghiệm hay tại các nước tiên tiến như Đức, Australia, Anh. VCCI đề xuất áp dụng đánh giá ở Việt Nam mô hình giáo dục nghề nghiệp do ngành dẫn dắt, trong đó việc xác định các kỹ năng, cập nhật các kỹ năng mới, thiết kế chương trình cho học viên của một ngành nhất định được thực hiện với sự tham gia của chính các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong ngành đó thông qua Hội đồng tư vấn kỹ năng nghề. Đây là cơ chế phối hợp đa ngành: Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp. Hội đồng tư vấn kỹ năng nghề được lập theo từng ngành, cung cấp thông tin thị trường lao động của ngành, tư vấn thiết kế việc thực hiện đánh giá chương trình hoạt động nghề nghiệp sát với từng ngành.

Việt Nam đang có mục tiêu và khát vọng trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Chìa khóa vàng để mở cánh cửa đầu tiên đến với mục tiêu này là nhanh chóng xây dựng lực lượng lao động chất lượng vàng, có năng suất cao, thu nhập cao. Để thực hiện điều này, cần có những giải pháp mạnh và đột phá trong đó có việc tạo điều kiện và phát huy vai trò của doanh nghiệp không chỉ là người sử dụng mà là chủ thể trực tiếp tham gia bồi dưỡng đào tạo kỹ năng nghề cho người lao động. Đồng thời quan tâm tạo môi trường phát triển nhanh, bền vững vì một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập chỉ có thể có được khi doanh nghiệp phát triển phát triển hiện đại, bền vững, hội nhập.

09:00 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Hiệu trưởng Trường Cao đẳng công nghệ quốc tế LILAMA 2 Nguyễn Khánh Cường chia sẻ nghiệm triển khai các mô hình đào tạo phối hợp và các chương trình chuyển giao từ đối tác nước ngoài - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Hiệu trưởng Trường Cao đẳng công nghệ quốc tế LILAMA 2 Nguyễn Khánh Cường: Mặc dù có nhiều khó khăn trong phát triển nhưng với sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ, của các tổ chức quốc tế, hệ thống giáo dục nghề nghiệp của chúng ta có những bước phát triển, có những điểm nổi bật và vươn lên trong quá trình đào tạo, hội nhập. Một trong những minh chứng là hôm nay tôi thay mặt cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được báo cáo với Hội nghị.

Trong hơn 10 năm phát triển và đổi mới, từ một trường có năng lực khiêm tốn, Trường LILAMA 2 được Chính phủ, các bộ ngành quan tâm và chúng tôi từng bước trở thành một trong những trường tiêu biểu, không những được thị trường trong nước công nhận mà còn được thị trường ngoài nước, đặc biệt thị trường Đức thừa nhận.

Trong quá trình phát triển của mình, Trường đã áp dụng nhiều mô hình đào tạo trên thế giới như Anh, Australia, đặc biệt là Đức. Đối với đào tạo và cung ứng nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước thì từ năm 2015, Nhà trường đã hợp tác với các tập đoàn nước ngoài để đào tạo, triển khai theo mô hình đào tạo kép 100% là của Đức và để các doanh nghiệp này chuẩn hóa đội ngũ lao động của họ. Hiện nay chúng tôi đang tiếp tục phát triển trong lĩnh vực cơ khí, cơ điện tử và đã đào tạo được 200 kỹ thuật viên để cung cấp cho các tập đoàn này. Mô hình này được rất nhiều doanh nghiệp chủ động tham gia phối hợp với Nhà trường. Trong quá trình tham gia đào tạo, họ thấy có nhu cầu thì họ cùng với Nhà trường tham gia, cho học sinh học tại trường và học tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp có những cán bộ để phối hợp, tổ chức đào tạo cùng với Nhà trường.

Song song với đó, Nhà trường cũng đã được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hỗ trợ để xây dựng mô hình đào tạo phối hợp điều chỉnh từ mô hình đào tạo kép của Đức, có sự tham gia của doanh nghiệp ngay từ khâu tuyển sinh, đào tạo, đánh giá và tiếp nhận vào thực tiễn. Mô hình đào tạo kép có nhiều hạn chế, rất khó để nhiều doanh nghiệp cùng tham gia. Ở đây có thể Vingroup, THACO có điều kiện để triển khai mô hình, nhưng có nhiều doanh nghiệp rất khó tham gia đào tạo, nên không thể áp dụng rộng rãi cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như một số doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.

Về hỗ trợ kỹ thuật, Trường LILAMA 2 đã được các tổ chức quốc tế đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên và doanh nghiệp chuyển giao chương trình. Hiện nay Trường đang nhân rộng mô hình đào tạo phối hợp với doanh nghiệp ra 11 trường khác. Ví dụ chúng tôi đang phối hợp với Trường Cao đẳng Việt-Hàn triển khai chương trình hợp tác.

Đối với thị trường lao động nước ngoài, hiện nay Nhà trường được Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Đức lựa chọn thí điểm Chương trình di cư an toàn toàn cầu để đào tạo cho 50 em sinh viên, sau đó tuyển chọn và đưa sang Đức làm việc.

Với kinh nghiệm triển khai các mô hình đào tạo phối hợp và nhân rộng cho các trường cũng như kinh nghiệm của 22 chương trình được Chính phủ Đức chuyển giao đang triển khai tại 45 trường, tôi có đề xuất:

Xây dựng mô hình đào tạo phối hợp đặc trưng Việt Nam để thu hút doanh nghiệp cùng tham gia với nhà trường trong quá trình triển khai đào tạo.

Đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm tạo cơ chế để cơ sở giáo dục nghề nghiệp và toàn xã hội tham gia phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẵn sàng đón các làn sóng FDI vào Việt Nam.

Đào tạo nghề rất tốn kém, chi phí rất cao, không chỉ giáo viên, mà cả vật tư, cả thiết bị, cả giáo trình, do vậy đề nghị có cơ chế hỗ trợ tín dụng cho sinh viên tham gia vào chương trình chất lượng cao.

Và cuối cùng là chính sách hỗ trợ để đào tạo cho người lao động cũng như là đào tạo nâng cao chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp với thay đổi của công nghệ.

08:54 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Đại diện Tập đoàn ManpowerGroup Việt Nam: Lao động Việt Nam gặp khá nhiều hạn chế khi các doanh nghiệp đưa công nghệ mới vào sản xuất, khả năng thích nghi và đáp ứng của lao động còn thấp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đại diện Tập đoàn ManpowerGroup Việt Nam: Trước hết, tôi xin đưa ra một số số liệu cụ thể về thị trường lao động Việt Nam đã được Manpower khảo sát.

Cụ thể, trong bối cảnh thị trường lao động bị tác động nặng nề của đại dịch COVID-19, mức độ phù hợp làm việc từ xa của lao động Việt Nam chỉ chiếm hơn 86%, điều này dẫn đến việc khả năng đáp ứng của lao động trong điều kiện làm việc mới khá thấp.

Tỉ lệ lao động có kỹ năng tay nghề chỉ chiếm 11%, con số này cho thấy kỹ năng chuyên môn của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của DN, nhất là trong bối cảnh hội nhập, đòi hỏi về kỹ năng tay nghề của lao động ngày càng cao.

Tỉ lệ sử dụng tiếng Anh chỉ chiếm 5%, dẫn đến sức cạnh tranh cảu lực lượng lao động Việt Nam còn hạn chế. Mức lương trung bình tháng của lao động Việt Nam khoảng 300 USD  (khoảng 7 triệu đồng), thấp hơn khá nhiều so với lao động trong khu vực (1.992 USD) và thế giới (2.114 USD).

Từ những số liệu trên có thể thấy, lao động Việt Nam gặp khá nhiều hạn chế khi các doanh nghiệp đưa công nghệ mới vào sản xuất, khả năng thích nghi và đáp ứng của lao động còn thấp.

Cũng theo khảo sát của Manpower, có 57% DN đang gặp khó khăn trong vấn đề tuyển dụng. Chúng tôi có một số góp ý để DN thu hút lao động, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh.

Thứ nhất, các cơ sở giáo dục đào tạo cần cải tiến một số chương trình, cần có sự kết nối gần giữa DN với các cơ sở đạo tạo để tạo đầu ra cho sinh viên, kết nối sinh viên với DN ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Thứ hai, DN cần có kế hoạch, chương trình cải thiện tính linh hoạt khi làm việc từ xa của lao động. Chúng tôi thấy thời gian qua lực lượng lao động chưa quen với việc làm việc từ xa và chưa đủ kỹ năng để đáp ứng được nhu cầu của DN.

Thứ ba, nếu trước kia lương là yếu tố quan trọng hàng đầu để thu hút lao động thì hiện tại cần nhiều yếu tố để "giữ chân" lao động như chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc, cơ hội phát triển kỹ năng và nhiều chính sách linh hoạt khác. DN hiểu chính lao động của mình thì sẽ đáp ứng được nhu cầu của họ.

08:48 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Tổng Giám đốc Tập đoàn Pouyen Việt Nam Tsai Wen Tsung mong muốn thời gian tới, Chính phủ tạo điều kiện tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo nghề, bồi dưỡng nguồn lao động chất lượng cao - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tổng Giám đốc Tập đoàn Pouyen Việt Nam Tsai Wen Tsung: Tập đoàn Pouyen đến Việt Nam đầu tư từ năm 1994, và đến nay chúng tôi đã có thâm niên 28 năm gắn bó với Việt Nam.

Đại dịch COVID-19 đã gây ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội toàn cầu. Tập đoàn Pouyen là Tập đoàn sản xuất gia công giày thể thao xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, chúng tôi cũng đã phải trải qua một khoảng thời gian đầy thách thức, khó khăn. Tháng 7/2021, 8 nhà máy của chúng tôi tại 5 tỉnh, thành phố đã phải ngừng sản xuất 3,5-4 tháng. Trước khi dừng sản xuất, tổng số lao động tại Việt Nam của chúng tôi khoảng 130.000 người, sau khi sản xuất trở lại, số lao động đã giảm 5% so với trước, còn khoảng hơn 123.000 người. Chúng tôi cùng với người lao động đã có khoảng thời gian vô cùng khó khăn,vất vả do ảnh hưởng của đại dịch.

May mắn thay, trong khoảng thời gian này, chúng tôi đã luôn nhận được sự chỉ đạo và hỗ trợ, chỉ đạo của chính quyền từ Trung ương đến địa phương, bằng rất nhiều biện pháp đề giúp doanh nghiệp của chúng tôi có thể duy trì sản xuất.

Thứ hai là việc ưu tiên tiêm vaccine phòng, chống dịch COVID-19 cho người lao động để doanh nghiệp có thể đạt được miễn dịch cộng đồng và nhanh chóng trở lại quỹ đạo hoạt động sản xuất bình thường.

Thứ ba, đối với người lao động quay lại làm việc sau thời gian ngừng việc, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ như hỗ trợ tiền thuê nhà để giúp đỡ người lao động sớm trở lại thị trường lao động và ổn định việc làm. Hiện đã có khoảng 36.000 người lao động của Tập đoàn Pouchen tại các tỉnh, thành phố nhận được tiền trợ cấp thuê nhà từ gói hỗ trợ này.

Sau khi khôi phục hoạt động sản xuất, việc bị thâm hụt 5% số lao động đã tác động rất lớn đối với ngành nghề sử dụng nhiều lao động như chúng tôi. Thêm vào đó, thời đại công nghệ, lao động trẻ có nhiều cơ hội nghề nghiệp, họ có thể tiếp cận gần hơn với các ngành công nghiệp dịch vụ khác nhau, do vậy ngành sản xuất gia công chúng tôi cũng cần có những bước đột phá thông qua chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ.

Hai vấn đề chính cũng là vấn đề trọng tâm của Tập đoàn trong thời gian tới của chúng tôi, đó là : 1. Tự động hóa sản xuất 2. Số hóa thông tin (dữ liệu). Do đó chúng tôi có nhu cầu tuyển dụng số lượng lớn người lao động bản địa có kỹ năng, tay nghề cao trong các lĩnh vực như kỹ thuật khuôn mẫu, tự động hoá, công nghệ thông tin... để cùng hỗ trợ quá trình sản xuất và chuyển đổi số của doanh nghiệp.

Việc nâng cấp và chuyển đổi số của ngành sản xuất chúng tôi phụ thuộc nhiều vào nguồn lao động chất lượng cao. Trong bối cảnh khan hiếm lao động của ngành công nghiệp da giày như hiện nay, chúng tôi đề xuất Chính phủ và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hỗ trợ như sau:

Thứ nhất là về ngắn hạn, chúng tôi mong Chính phủ tạo điều kiện tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường đào tạo nghề, bồi dưỡng nguồn lao động chất lượng cao. Vấn đề này chúng tôi thấy còn hạn chế ở Việt Nam. Việc đào tạo nhân lực chất lượng cao giúp chúng tôi có thể tăng cơ hội việc làm cho người lao động trong nước.

Về dài hạn, tôi cho rằng giáo dục là hậu thuẫn mạnh mẽ nhất cho sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng các trường đào tạo nghề, kỹ năng chuyên môn và khoa học kỹ thuật là rất quan trọng để tạo nền tảng kỹ thuật cơ bản vững chắc hơn cho ngành sản xuất.

Chúng tôi hy vọng rằng Chính phủ sẽ đầu tư thêm nguồn lực vào các tỉnh phía nam để có thể tạo ra nguồn lao động có kỹ năng, tay nghề cao để hỗ trợ cho các doanh nghiệp ở các tỉnh phía nam.

08:42 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Tổng Giám đốc Trường Hải THACO Phạm Văn Tài đề xuất các giải pháp phát triển thị trường lao động - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tổng Giám đốc Trường Hải THACO Phạm Văn Tài:  Tập đoàn Trường Hải THACO được thành lập năm 1997, khởi đầu là doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ô tô, đến nay THACO đã phát triển thành tập đoàn công nghiệp đa ngành, bao gồm các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế đất nước như: Ô tô, nông nghiệp, cơ khí, công nghiệp hỗ trợ, thương mại, dịch vụ, đầu tư xây dựng… và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; thực hiện sứ mệnh mang lại giá trị cho khách hàng, đối tác, xã hội, đóng góp cho phát triển kinh tế đất nước.

THACO hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược sản xuất kinh doanh và chiến lược kỹ thuật số, hướng tới phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới.

Tổng số nhân sự THACO hiện nay là  trên 60.000 người, bao gồm trong nước 30.000 và nước ngoài 30.000. Trong đó, trình độ đại học, trên đại học 32%; cao đẳng, kỹ thuật 18%; công nhân kỹ thuật 50%.

Trong giai đoạn 2022-2025, THACO có nhu cầu nhân sự tăng 15%/năm, tức là khoảng 9.000 - 10.000 việc làm/năm.

Để đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhằm thực hiện chiến lược đa ngành, phát triển bền vững, trong giai đoạn qua THACO đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào công tác tuyển dụng, đào tạo với quan điểm: Tuyển dụng tại địa phương nơi THACO đầu tư sản xuất kinh doanh để góp phần giải quyết lao động, an sinh xã hội; chủ động trong công tác đào tạo, huấn luyện, thường xuyên phát triển nhân sự, kiện toàn và nâng cấp quản trị nhân sự đáp ứng chiến lược sản xuất, kinh doanh từng giai đoạn.

Cụ thể, từ năm 2010, THACO đã thành lập trường Cao đẳng nghề để chủ động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; đào tạo từ trung cấp đến cao đẳng các ngành nghề: Công nghệ ô tô, điện cơ khí, điện công nghiệp, bảo trì thiết bị cơ điện, công nghệ thực phẩm… với quy mô đào tạo 2.000 sinh viên/năm.

Đến nay, THACO đã đào tạo trên 2.500 trình độ cao đẳng, 2.000 nhân sự sơ cấp, trung cấp, 200 kỹ sư thực hành. Học viên trường Cao đẳng THACO được miễn học phí, được thực tập trên dây chuyền sản xuất tại các nhà máy, vừa học vừa làm có lương, được bố trí việc làm sau khi tốt nghiệp. Thời gian tới sẽ thành lập thêm các trung tâm đào tạo, thành lập trường đại học THACO để nâng cấp đào tạo nguồn nhân lực thế hệ mới.

Thứ hai là phối hợp Sở GD&ĐT trên địa bàn để định hướng nghề nghiệp cho học sinh cuối cấp thi vào các trường đại học, cao đẳng phù hợp với lĩnh vực sản xuất kinh doanh đa ngành của THACO, góp phần có việc làm sau khi tốt nghiệp.

Thứ ba là hợp tác liên kết trường đại học, viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đào tạo trong các hoạt động đào tạo như kiến tập, thực tập, góp ý nội dung chương trình đào tạo chuẩn đầu ra, phối hợp tuyển dụng và đào tạo lại.

Thứ tư là tuyển dụng chuyên gia từ các nước tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc để đào tạo công nghệ, kỹ thuật và công nghiệp điện tử.

Thứ năm là hoàn thiện chính sách, chế độ, xây dựng và phát triển môi trường làm việc văn hoá, thu hút nhân sự phù hợp chiến lược phát triển và quản trị đặc của THACO. Phát triển nhân sự là trách nhiệm và mục tiêu doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn mới với tầm nhìn là công nghiệp đa ngành, phát triển bền vững trong khu vực và thế giới.

Tại hội nghị, THACO đề xuất các giải phát phát triển thị trường lao động, đó là: Ban hành hệ thống chính sách đồng bộ trong phát triển nguồn nhân lực theo quy hoạch phát triển kinh tế vùng; chú trọng tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo từ trường phổ thông đến đại học và các trường đào tạo nghề theo hướng tiếp cận ngành giáo dục uy tín của khu vực và thế giới; tập trung phát triển nhân lực có trình độ cao để tập trung các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả, tránh lãng phí trong nguồn nhân lực. Đặc biệt cần hạn chế tình trạng đào tạo ra không có việc làm, tổ chức đào tạo lại, xây dựng cơ chế hợp tác, phát triển nguồn nhân lực của Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp; có dự báo xu hướng nhu cầu lao động chính xác trong giai đoạn mới.

Thứ ba, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, khoa học công nghệ, trung tâm đào tạo nhân tài, từng bước hiện đại hoá theo tiêu chuẩn quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp nghiên cứu, đào tạo theo xu thế chuyển đổi số hiện nay.

Thứ tư, ban hành cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp để có thể thu hút ngày càng nhiều chuyên gia nước ngoài, chuyên gia cao cấp đến làm việc, nghiên cứu khoa học, đào tạo, chuyển giao công nghệ và tham gia phục vụ sản xuất nhằm tăng cường khả năng hội nhập quốc tế cho nhân lực Việt Nam.

08:36 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Tổng Giám đốc Vingroup Nguyễn Việt Quang mong muốn Chính phủ, chính quyền các địa phương, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo hỗ trợ trong tuyển dụng và đào tạo nhân sự - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tổng Giám đốc Vingroup Nguyễn Việt Quang: Về tình hình thực tế lao động, với tiêu chí bền vững, hiện đại, hội nhập, Vingroup đang tiên phong thu hút sử dụng lực lượng lao động với trí tuệ Việt và kinh nghiệm, tri thức phương Tây.

Hiện nay, Vingroup có 3 mảng hoạt động chính: Công nghệ, công nghiệp; thương mại, dịch vụ; thiện nguyện xã hội. Với tổng số nhân sự 45.000 người, đang dự kiến tăng lên 150.000 người trong 2 năm tới. Nhân sự của Tập đoàn Vingroup bao trùm tất cả cấp độ từ người lao động phổ thông sau khi được đào tạo cơ bản, có khả năng chăm sóc các chất lượng dịch vụ ở chuỗi khách sạn 5 sao, tham gia xây dựng các công trình lớn nhất của Việt Nam ở Vinhome tới những lao động cấp cao người Việt có khả năng quản trị dẫn dắt hàng trăm nhân sự cao cấp trong lĩnh vực nghiên cứu sản xuất công nghệ, thương mại dịch vụ...

Hiện nay Vinfast và Vingroup đang có gần 1.000 chuyên gia đến từ gần 20 quốc gia phát triển trên thế giới. Nghiệp vụ của các chuyên gia ở Việt Nam không chỉ giúp chúng tôi triển khai các dự án nghiên cứu sản xuất trong mảng công nghệ, công nghiệp mà quan trọng hơn là tham gia vào quá trình đào tạo huấn luyện xây dựng đội ngũ nhân sự có chất lượng quốc tế.

Trong vòng 3 năm tới, Vingroup đang có kế hoạch mở ra Trung tâm kết nối trí tuệ toàn cầu tại Khánh Hòa nhằm quy tụ những bộ óc lớn nhất thế giới với các chuyên gia đang sở hữu bằng sáng chế, các nghiên cứu chuyên sâu, Vingroup sẽ hỗ trợ họ phát triển ứng dụng để Việt Nam có một Thung lũng Silicon - nơi quy tụ tinh hoa của thế giới.

Về nhu cầu tuyển dụng trong thời gian tới, trong 2 năm tới, Vingroup cần 100.000 nhân sự trong đó có khoảng 20% là nhân sự cao cấp đã qua đào tạo tối thiểu là trình độ đại học và khoảng 10% cho khối sản xuất phục vụ sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài. Chúng tôi cũng khẳng định rằng, Vingroup khi đi ra thế giới sẽ mang theo khát vọng của Việt Nam và chỉ có thể dựa vào con người. Ở trong nước, chúng ta khẳng định thương hiệu, chất lượng, uy tín, tốc độ nhưng ra nước ngoài chúng ta được biết đến như một đất nước kiên cường, bền bỉ; chúng ta sử dụng chất xám Việt trên nền tảng kiến thức và kinh nghiệm của các chuyên gia quốc tế trong việc chinh phục thế giới bằng sản phẩm, thương hiệu chất lượng và chất xám của Việt Nam.

Về kế hoạch 5 năm tới, Vingroup dự kiến xây đựng 500.000 căn nhà xã hội và một loạt dự án xây dựng được triển khai tại Quảng Ninh, Khánh Hòa, TPHCM cùng với việc mở mới nhà máy pin tại Vũng Áng (Hà Tĩnh), mở rộng sản xuất nhà máy ô tô điện ở Hải Phòng chúng tôi cần tuyển gấp khoảng từ 80.000-100.000 công nhân cho các dự án này.

Chúng tôi đề nghị Chính phủ, chính quyền các địa phương, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng phối hợp với Vingroup hỗ trợ trong tuyển dụng và đào tạo nhân sự. Một số đơn vị thành viên của Vingroup đã có các chương trình hợp tác song phương với các trường đại học lớn như VinUni, Đại học Ngoại thương, Đại học Ngoại giao, Đại học Bách khoa… để đưa trí tuệ, kinh nghiệm của chúng tôi trở thành chương trình đào tạo phổ biến khoa nhằm nâng cao chất lượng đại học.

Với chính quyền địa phương, Vinfast và công ty xây dựng Vinhome đang có nhu cầu tuyển dụng hàng chục nghìn lao động để đào tạo và phát triển họ thành những công nhân lành nghề. Chúng tôi cần các địa phương phối hợp cung cấp nguồn nhân lực số lượng lớn, đã qua đào tạo cơ bản, có định hướng về tinh thần làm việc thái độ làm việc, đặc biệt coi trọng tinh thần kỷ luật. Vingroup sẽ có chế độ đãi ngộ tốt nhất để họ yên tâm công tác.

Vingroup bày tỏ ước vọng tiên phong mang sản phẩm, công nghệ ra thế giới. Đó là con đường cần thiết để chúng ta định vị chất lượng, chất xám Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng rằng Chính phủ sẽ có những chương trình đồng hành cùng các doanh nghiệp để thực hiện khát vọng này. Vingroup sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ các doanh nghiệp khác trên hành trình này.

Để xây dựng lực lượng lao động hiện đại, bền vững, hội nhập trong ngắn hạn, cách tiếp cận của chúng tôi là học nhanh nhất từ những người giỏi nhất và đưa việc học vào sản phẩm dịch vụ thực tế để tiếp tục cải tiến. Về ngắn hạn, chúng tôi tiếp tục đầu tư cho chất lượng nhân sự hay nói đúng hơn là chất lượng dân số cả về sức khỏe, trí tuệ. Từ câu chuyện giáo dục ở Vinschool, VinUni, Vinfuture,Vinglobal… tới những câu chuyện chia sẻ, lan tỏa, nhân rộng kinh nghiệm xương máu của Vingroup cho thế hệ tương lai và các doanh nghiệp bạn muốn học hỏi.

Vingroup hết sức ủng hộ các chương trình của Chính phủ, đặc biệt là việc phối hợp với các địa phương, trong đó có bài toán cụ thể cho từng địa phương nếu địa phương nào có nhu cầu. Bởi hoạt động sản xuất kinh doanh của Vingroup trải dải khắp cả nước và vươn ra thế giới. Vingroup sẽ cử những nhân sự phụ trách phối hợp chặt chẽ với các địa phương và các trường, các doanh nghiệp bạn trong việc đào tạo nhân sự.

08:29 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sun Group Đặng Minh Trường: Doanh nghiệp phải chuyển đổi đáp ứng xu thế mới của nhân lực trong thời gian tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Sun Group Đặng Minh Trường: Trong năm 2022 các chính sách mở cửa cũng như các chính sách đối phó linh hoạt với dịch COVID-19, các gói kích cầu kinh tế đã mang lại sự hồi phục, tăng trưởng trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, với doanh nghiệp du lịch cũng như doanh nghiệp trong lĩnh vực khác, chúng tôi cũng có khó khăn, cụ thể:

Thứ nhất là nguồn cung lao động chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi kinh tế, đặc biệt là các lao động có trình độ chuyên môn cao. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, hằng năm, với định hướng phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn, chúng ta cần đến 40.000 lao động có trình độ thì các trường đào tạo nghề, trường cao đẳng hiện nay cũng chỉ đáp ứng được khoảng 15.000, như vậy thiếu hụt rất lớn.

Thứ hai là chi phí lao động tăng nhanh nhưng tay nghề còn hạn chế, khả năng đáp ứng chưa cao. Theo thống kê có đến 90% doanh nghiệp gặp phải tình trạng ứng viên không phù hợp, thử việc xong cũng phải xin nghỉ.

Vấn đề thứ ba là doanh nghiệp phải chuyển đổi đáp ứng xu thế mới của nhân lực trong thời gian tới. Họ yêu cầu hình thức làm việc linh hoạt hơn về thời gian cũng như địa điểm. Thứ hai là họ muốn chuyển dịch từ cố định sang tự do. Thứ ba là tỉ lệ nhân viên nghỉ việc có xu hướng tăng lên rất đáng kể trong ngành du lịch.

Với kinh nghiệm của Sun Group, chúng tôi tập trung vào 3 trụ cột chính để đẩy nhanh quá trình phục hồi tăng trưởng và quan tâm sức khỏe nguồn lao động của mình. Thứ nhất là chú trọng môi trường làm việc chuyên nghiệp, nhân văn với các chế độ đãi ngộ đa dạng. Thứ hai, ưu tiên chuyển đổi số trong công tác quản trị, vận hành và quan trọng nhất là kiên trì phát triển văn hóa doanh nghiệp làm nền tảng cho phát triển của doanh nghiệp.

Với các chính sách để đóng góp với hội nghị, tôi xin có 3 ý kiến như sau:

Thứ nhất phải nâng cao vai trò, nhận thức của giáo dục nghề nghiệp, ví dụ như ở Singapore, những năm 60 có đến 95% hướng nghiệp là đi học đại học, nhưng đến thời điểm này tôi được biết là có đến 65% được phân luồng để học đào tạo nghề hoặc giáo dục hướng nghiệp. Cần có sự hợp tác đa phương giữa đào tạo nghề giữa nhà trường và doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các trường cao đẳng, đại học chính quy với các hiệp hội nghề nghiệp, trung tâm giới thiệu việc làm và doanh nghiệp. Có chính sách ưu đãi về thuế trong tổng thể chiến lược để có gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và có cơ chế hỗ trợ ngân sách giải ngân để Nhà nước đồng hành với doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề và tái đào tạo kỹ năng của người lao động.

Vấn đề thứ hai, như báo cáo của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã nói rất rõ là sự mất cân đối trong cung-cầu cho các địa bàn do thiếu đồng bộ trong cơ sở hạ tầng cũng như cơ sở xã hội. Ví dụ như Sun Group khi đầu tư, đưa vào vận hành các tổ hợp, công trình ở vùng sâu, vùng xa thì gặp rất nhiều khó khăn trong thu hút nhân sự vì hạ tầng phục vụ sinh hoạt cơ bản còn thiếu cũng như phải cạnh tranh với nguồn lao động phi chính thức tăng rất cao. Chúng tôi cũng muốn có chính sách cụ thể để hỗ trợ cho việc hạ tầng, đào tạo đi trước một bước. Chúng tôi muốn có sự an cư lạc nghiệp với người lao động bằng cách có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động, hoặc chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với đối tượng cần được hỗ trợ nhà ở. Ngoài ra, có thể mở rộng đối tượng được mua nhà ở xã hội cho các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động tại các địa phương xa, vùng khó khăn, thu hút được người lao động đến. Tăng trần hạch toán chi phí phúc lợi vào chi phí doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp chỉ được hạch toán tối đa tổng chính sách phúc lợi tương đương 4 tháng tiền lương, chưa đủ để có phúc lợi hấp dẫn  thu hút người lao động vào địa bàn, vùng miền khó khăn, chưa có điều kiện sinh hoạt tốt.

Thứ ba là cơ chế ưu đãi khuyến khích các khoản đầu tư về công nghệ phục vụ cho chuyển đổi số để đáp ứng với sự phát triển bền vững.

08:08 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung: Sau hơn 35 năm đổi mới, thị trường lao động Việt Nam đã có những bước tiến dài đáng kể trên con đường phát triển, đổi mới và hội nhập - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Báo cáo về tình hình thị trường lao động, Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung cho biết: Cùng với thị trường hàng hoá-dịch vụ, tài chính, tiền tệ, khoa học-công nghệ và thị trường bất động sản, thị trường lao động được xác định là một thị trường trọng yếu của nền kinh tế và chắc chắn cần được đổi mới và đẩy mạnh phát triển trong giai đoạn hiện nay.

Thị trường lao động Việt Nam có thể xem được chính thức hình thành và phát triển từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống thể chế, luật pháp, chính sách về thị trường lao động từng bước được hoàn thiện; quy mô và chất lượng cung-cầu lao động được gia tăng; chất lượng việc làm của chúng ta ngày càng được được cải thiện; đã từng bước chính thức hóa một phần khu vực phi chính thức; cơ cấu lao động có bước chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỉ trọng lao động khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng việc làm dễ bị tổn thương, tăng tỉ lệ việc làm được bảo vệ; tiền lương và thu nhập của người lao động được cải thiện rõ rệt; năng suất lao động và tính cạnh tranh của lực lượng lao động được nâng lên.

Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 đã để lại những tác động nặng nề đến thị trường lao động Việt Nam và qua đó cũng làm bộc lộ những điểm mạnh, điểm yếu, những nhân tố cần quan tâm hoàn thiện trong tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững, hiệu quả trước mắt cũng như lâu dài.

Bước tiến dài phát triển, đổi mới và hội nhập của thị trường lao động

Sau hơn 35 năm đổi mới, thị trường lao động Việt Nam đã có những bước tiến dài đáng kể trên con đường phát triển, đổi mới và hội nhập, cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật được hoàn thiện tương đối đồng bộ và toàn diện. Đặc biệt, Bộ luật Lao động năm 2019 và các luật liên quan và các văn bản hướng dẫn triển khai được sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với thực tiễn, tạo hàng lang pháp lý để phát triển thị trường lao động; chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng cầu nhân lực của nền kinh tế và đặc biệt là phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ hai, nguồn cung lao động cho thị trường lao động không ngừng gia tăng về số lượng và cải thiện về chất lượng. Lực lượng lao động tăng từ 27,87 triệu người (năm 1986), đến nay là 51,4 triệu người (quý II năm 2022); tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng 49% (năm 2014), nay là 67% (6 tháng đầu năm 2022).

Thứ ba, cầu lao động tăng về số lượng và cải thiện về chất lượng theo hướng hiện đại và bền vững. Trong giai đoạn 2011-2019, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho từ 1,5-1,6 triệu lượt người, tỉ lệ thất nghiệp thường xuyên duy trì ở mức dưới 3%. Các năm 2020-2021, tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,22% (tăng 0,54%), thị trường lao động đã tiếp tục phục hồi nhanh chóng trong 8 tháng đầu năm 2022.

Thứ tư, nhiều chính sách tạo việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao động đã được triển khai nhất quán, liên tục, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ phục hồi thị trường lao động sau đại dịch COVID-19.  Chính phủ đã tập trung tháo gỡ những "nút thắt" về thể chế để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư để tạo việc làm; Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, phân tích dự báo thị trường lao động; Triển khai các hoạt động hỗ trợ kết nối cung-cầu lao động.

Trong 2 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP và số 116/NQ-CP, từ năm 2021 đến nay, Trung ương và các địa phương đã dành tổng kinh phí hơn 82 nghìn tỷ đồng thực hiện các chính sách hỗ trợ gần 728.500 lượt người sử dụng lao động và trên 49,7 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác. Hiện nay đang triển khai Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động với tổng kinh phí 6.600 tỷ đồng.

Thứ năm, hệ thống an sinh xã hội được xây dựng tương đối hoàn thiện và vận hành hiệu quả với vai trò giá đỡ cho thị trường lao động. Tính đến tháng 7 năm 2022, số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 17,15 triệu người, chiếm 34,65% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 13,94 triệu người, chiếm 28,17% lực lượng lao động trong độ tuổi. 

Nhìn chung, các chính sách đã được ban hành kịp thời, đồng bộ tạo hành lang pháp lý để tổ chức, vận hành và phát triển thị trường lao động góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế-xã hội.

Còn bộc lộ nhiều hạn chế

Thứ nhất, trên bình diện cả nước, cung lao động còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Điều này thể hiện ở số lượng lao động có trình độ, kỹ năng nghề cao còn nhỏ; chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường lao động; năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp, chưa tận dụng được hết cơ hội của thời kỳ dân số vàng để thu hút nguồn lực đầu tư FDI. Hạn chế về trình độ, kỹ năng nghề khiến lao động khó có thể có được việc làm bền vững và chuyển dịch linh hoạt trong một thị trường lao động đang biến chuyển không ngừng.

Thứ hai, về cầu lao động của nền kinh tế cũng chưa đủ 'hiện đại', chưa có đủ việc làm bền vững để đáp ứng nhu cầu việc làm phù hợp với nguyện vọng của người lao động. Tổng cầu của nền kinh tế hiện tại thể hiện thông qua số người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Cầu lao động còn chưa hiện đại thể hiện qua các số liệu sau: Tổng số lao động đang làm việc hiện nay là 50,54 triệu người, bao gồm 13,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 27,5%; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,8 triệu người, chiếm 33,24%; khu vực dịch vụ 19,8 triệu người, chiếm 39,18%. Lao động dịch chuyển khỏi ngành nông nghiệp, đa số chuyển sang làm việc trong các ngành công nghiệp, lắp ráp; đi lao động có hợp đồng ở ngoài nước, làm các công việc giản đơn, giá trị gia tăng thấp hay các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng thấp.

Thứ ba, nhìn tổng thể, ở thời điểm hiện tại thị trường lao động Việt Nam vẫn là một thị trường dư thừa lao động, có trình độ, kỹ năng thấp và có sự phát triển không đồng đều. Chúng ta thấy đã và đang tồn tại tình trạng mất cân đối cung-cầu lao động cục bộ giữa các vùng miền, khu vực, ngành nghề kinh tế; cơ chế kết nối cung-cầu và tự cân bằng của thị trường còn yếu, mà lý do chính là hệ thống thông tin trên thị trường lao động chưa được phát triển đầy đủ.

Thứ tư, phương thức quản trị thị trường lao động còn nhiều yếu kém, rời rạc, thiếu tính kết nối. Năng lực cán bộ là khâu yếu nhất của quản trị thị trường lao động, thiếu các chuyên gia và đội ngũ cán bộ có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để dự báo, phân tích xu thế và đề xuất giải pháp quản lý thị trường lao động có hiệu quả.

Thứ năm, hệ thống an sinh xã hội phát triển chưa bền vững, lưới an sinh xã hội chưa đủ sức đảm đương phòng ngừa, khắc phục và chống chịu rủi ro bền vững cho người lao động.

Hiện đại hóa nguồn cung lao động

Là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam phải tuân thủ các "luật chơi" chung, đặc biệt là các tiêu chuẩn lao động. Thế giới việc làm và thị trường lao động quốc tế đã và đang thay đổi nhanh chóng dưới tác động cộng hưởng của đại dịch COVID-19 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đặt ra những vấn đề mới; nhiều việc làm, kỹ năng cũ sẽ mất đi hoặc giảm mạnh, xuất hiện nhiều việc làm mới, kỹ năng mới; trí tuệ nhân tạo, robot, máy móc sẽ đóng vai trò ngày một lớn trong sản xuất và thay thế nhiều vị trí việc làm hiện nay. Là nước có tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ thấp (26,2%), đây là một thách thức không nhỏ của nước ta hiện nay.

Việt Nam hiện là nước tiếp nhận nguồn vốn FDI lớn thứ 3 trong khu vực và là một trong số ít nước ASEAN vẫn duy trì được tăng trưởng dòng vốn FDI ổn định qua nhiều năm. Nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đã bày tỏ lo ngại trước việc thiếu cục bộ lực lượng lao động có kỹ năng nghề để phục hồi và mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhất là trong các ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp FDI luôn luôn cần nguồn nhân lực chất lượng cao để ứng dụng công nghệ mới và năng suất lao động cao. Nguồn lực chất lượng cao nếu không được chú trọng cải thiện trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mất dần sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài.

Thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập đòi hỏi phải xây dựng, tạo lập được nguồn cung lao động hiện đại với chất lượng nhân lực cao; nguồn cầu lao động hiện đại với chất lượng việc làm tốt hơn, bền vững hơn; phương thức quản trị thị trường lao động hiện đại phù hợp với một thị trường lao động hiện đại và hành lang pháp lý thuận lợi, tạo môi trường cho việc dịch chuyển lao động dễ dàng, linh hoạt, nhất là chuyển dịch từ việc làm dễ bị tổn thương sang việc làm bền vững và được bảo vệ, từ việc làm có chất lượng thấp, thu nhập thấp sang việc làm có chất lượng cao. Mục tiêu đó là rất cấp thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay.

Tận dụng cơ hội để phát triển

Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội mà nếu tận dụng được, thị trường lao động Việt Nam chắc chắn sẽ có thể phát triển nhanh, bền vững như kỳ vọng.

Trước hết, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 đã định hình mô hình phát triển đất nước theo hướng trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại (năm 2030) và là nước phát triển (năm 2045), trong đó một lần nữa nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực là một trong ba đột phá chiến lược.

Thứ hai, trong mô hình tăng trưởng mới, quy mô thị trường lao động đến năm 2025 là khoảng 60 triệu người, trong đó hơn 70% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ sẽ là thị trường lao động theo hướng hiện đại với nhiều ngành nghề mới, nhiều phân lớp thị trường nhân lực, đòi hỏi những tiêu chuẩn lao động mới, kỹ năng mới.

Thứ ba, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất nhanh, tác động mạnh mẽ, sâu rộng, đa chiều đến mọi quốc gia, ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh quốc gia. Kinh tế số sẽ làm thay đổi phương thức quản lý, tổ chức, vận hành thị trường lao động, mô hình việc làm, đào tạo nâng cao chất lượng lao động… Đồng thời, quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam sẽ phụ thuộc phần nhiều vào sự phát triển của thị trường lao động.

Thứ tư, đổi mới mô hình tăng trưởng nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, gắn với phát triển bền vững đòi hỏi tạo thêm nhiều việc làm mới, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, rút ngắn khoảng cách nhân lực qua đào tạo ở các khu vực thành thị và nông thôn. Và chúng ta còn rất nhiều dư địa cho hiện đại hóa nguồn cung, hiện đại hóa cầu lao động của nền kinh tế.

Thứ năm, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra nhanh chóng và sâu rộng. Triển khai chủ động, hiệu quả 15 hiệp định tự do thương mại đa phương và song phương sẽ đem lại những bước phát triển tích cực cho thị trường lao động Việt Nam.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 2.

Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH Đào Ngọc Dung báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Khơi thông các điểm nghẽn của thị trường lao động

Thứ nhất, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại và bền vững, tạo việc làm có năng suất cao; thực hiện đột phá phát triển nguồn nhân lực, đầu tư mạnh mẽ vào vốn con người, trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài; đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp, nâng tầm kỹ năng lao động, phổ cập nghề cho lực lượng lao động, đặc biệt là lao động trong khu vực phi chính thức; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng và chủ động thích ứng với xu hướng già hóa dân số.

Thứ hai, nhà nước giữ vai trò kiến tạo, quản lý và điều tiết phát triển thị trường lao động thông qua việc hoàn thiện nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính để hạn chế những rủi ro liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của người lao động trong bối cảnh diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, hỗ trợ tối đa cho người lao động, doanh nghiệp tham gia thị trường lao động. Tập trung triển khai ngay các giải pháp cấp bách và trước mắt nhằm tháo gỡ những vấn đề của người lao động, doanh nghiệp để khơi thông các điểm nghẽn của thị trường lao động, tạo đà phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Thứ tư, Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý và tổ chức vận hành các yếu tố của thị trường lao động để có sự đột phá trong công tác quản lý nhà nước và hoạt động của thị trường lao động.

Những giải pháp trước mắt nhằm phục hồi, ổn định thị trường lao động

Tăng cường công tác thông tin truyền thông để khẳng định với các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước: Thị trường lao động Việt Nam minh bạch, hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đủ điều kiện, khả năng để cung ứng nhân lực theo yêu cầu của các doanh nghiệp.

Khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối việc cung ứng nhân lực. Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Rà soát, đánh giá, sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là nhân lực chất lượng cao.

Tổ chức thực hiện các biện pháp để giải quyết nhu cầu thiếu nhân lực cục bộ, giảm sự mất cân đối cung - cầu lao động; phát triển các hình thức giao dịch việc làm theo hướng hiện đại trên nền tảng công nghệ số; thu hút lao động tại chỗ, đào tạo, đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc.

Giải pháp lâu dài phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập

Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Nâng cao hiệu quả tổ chức, vận hành thị trường lao động.

Thúc đẩy tạo việc làm bền vững, sử dụng lao động hiệu quả thông qua các chương trình, đề án, chính sách tín dụng hỗ trợ tạo việc làm, tham gia thị trường lao động, đặc biệt quan tâm đến các nhóm lao động đặc thù, lao động yếu thế.

Nghiên cứu, rà soát, đánh giá năng lực hệ thống các cơ sở đào tạo, các kiến nghị và đóng góp ý kiến của yêu cầu của cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp FDI để kịp thời triển khai các giải pháp đào tạo, nâng cao năng lực kỹ năng nghề cho công nhân lao động, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

Đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp cho người lao động cả trước, trong, sau quá trình tham gia thị trường lao động; cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, trình độ của lao động trong các doanh nghiệp, doanh nghiệp FDI, nhất là các ngành nghề khoa học - kỹ thuật - công nghệ và đào tạo các chuyên ngành mới trong chuyển đổi số như trí tuệ nhân tạo (AI), khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, IoT, chuỗi khối,… Tổ chức thực hiện các giải pháp phù hợp để phân luồng học sinh, sinh viên, hướng tới phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao và cơ cấu phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế.

Đầu tư công tác dự báo cung-cầu, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động hiện đại, đồng bộ, có sự kết nối, chia sẻ với cơ sở dữ liệu dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm.

Hỗ trợ phát triển lưới an sinh và bảo hiểm thông qua cung cấp thông tin và dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí cho người lao động khi tham gia thị trường lao động.

Phổ biến các hệ thống chứng nhận nghề, kỹ năng theo tiêu chuẩn quốc tế để hỗ trợ người lao động được tham gia các thị trường lao động trong và ngoài nước; xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động đặc thù, nhất là cho phát triển thị trường lao động nông thôn, phát triển lao động làm công ăn lương trong khu vực kinh tế tư nhân và phát triển thị trường lao động trình độ cao.

08:03 ngày 20/08/2022

 

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 1.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Cùng với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển thị trường lao động, xác định lao động - việc làm là một trong những nội dung rất quan trọng trong chiến lược phát triển KTXH - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu mở đầu Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: Lao động là một yếu tố đầu vào cơ bản của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và của cả nền kinh tế. Theo K. Marx, cơ sở của giá trị hàng hóa là lao động; hàng hóa là sản phẩm của lao động. Được hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động có vị trí rất quan trọng; hoạt động hiệu quả của thị trường lao động góp phần bảo đảm ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.

Cùng với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát triển thị trường lao động, xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Đồng thời xác định lao động - việc làm là một trong những nội dung rất quan trọng trong chiến lược phát triển KTXH.

Trong những năm qua, thị trường lao động ở Việt Nam đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng hội nhập, từng bước tiệm cận với thị trường lao động khu vực và thế giới. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam vẫn còn manh mún, chưa chuyên nghiệp, thiếu tính linh hoạt, chưa thật bền vững; công tác nghiên cứu, dự báo, khớp nối cung cầu và cập nhật hệ thống thông tin thị trường lao động chưa thực sự hiệu quả và chuyên nghiệp. Từ đầu năm 2020 đến nay, dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng nặng nề tới thị trường lao động trong nước và thị trường xuất khẩu lao động.

Trước tình hình đó, cùng với những giải pháp phòng, chống dịch bệnh, Đảng, Nhà nước đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách liên quan tới thị trường lao động. Nhờ đó, sau khi chuyển sang "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19", thị trường lao động đã từng bước được phục hồi và phát triển, góp phần quan trọng vào sự khởi sắc của nền kinh tế - xã hội nước ta. Quy mô lực lượng lao động, tỉ lệ tham gia lao động và số người có việc làm tiếp tục tăng . Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động giảm dần.

Tuy nhiên, phát triển thị trường lao động vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức cả trước mắt và lâu dài để đáp ứng yêu cầu phục hồi, phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Trên tinh thần đó, Hội nghị hôm nay với chủ đề "Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập" để cùng nhau đánh giá những kết quả đạt được của thị trường lao động trong những năm qua, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức và những vấn đề đang đặt ra hiện nay để có các giải pháp phù hợp phát triển thị trường lao động trong thời gian tới, nhất là chủ động ứng phó với những tình huống đột xuất, bất ngờ, những cú sốc trên thị trường do tác động từ bên ngoài hoặc nội tại nền kinh tế.

Vừa qua, Chính phủ đã tổ chức hội nghị về phát triển thị trường vốn, sau đó đã kiểm soát tình hình tốt hơn và thị trường có chiều hướng lành mạnh hơn, hiệu quả qua, bền vững hơn; tiếp đó, tổ chức hội nghị về thị trường bất động sản, để thị trường có những bước tiến và các bất cập đang dần được khắc phục. Như vậy, Chính phủ ra tuyên bố ổn định và phát triển các loại thị trường – một trong "4 ổn định" trong trọng tâm, chỉ đạo điều hành của Chính phủ hiện nay, theo cách tiếp cận thị trường, rất linh hoạt, phù hợp tình hình.

TỔNG THUẬT: Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập - Ảnh 2.

Thủ tướng Chính phủ: Hội nghị "Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập" nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp phát triển thị trường lao động trong thời gian tới - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Việt Nam đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện: (1) Nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN (đầu tư, kinh doanh theo quy luật thị trường, theo quy luật cung-cầu nhưng có sự can thiệp của Nhà nước khi cần thiết). (2) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; (3) Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quan điểm xuyên suốt là lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, động lực, nguồn lực cho sự phát triển; phát huy tối đa trí tuệ, tài năng, phẩm chất, đạo đức của con người Việt Nam; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Đây là lĩnh vực rất quan trọng với nhiều vấn đề, nội dung khác nhau cần được thảo luận kỹ lưỡng, do đó để Hội nghị thực chất, hiệu quả, Thủ tướng đề nghị các đại biểu phát huy tinh thần thẳng thắng, cởi mở, xây dựng, cầu thị, phát biểu ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, trong đó tập trung vào một số nội dung chính sau: (1) Làm thế nào để nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò phát triển thị trường lao động và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững? (2) Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách về thị trường lao động theo hướng nào để tăng cường quản lý nhà nước và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho thị trường lao động phát triển hài hòa, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu thực tế? (3) Những kinh nghiệm trong nước, quốc tế và các giải pháp phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững, hội nhập; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tăng cường thu hút đầu tư chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa? (4) Giải pháp nào để chủ động ứng phó với những khó khăn, thách thức hiện nay, nhất là những tác động do đại dịch COVID-19 gây ra?

Với nền kinh tế quy mô còn khiêm tốn, nhưng có độ mở lớn, sức chống chịu có hạn, Việt Nam chịu tác động lớn bởi các yếu tố nêu trên, chỉ cần một biến động nhỏ ở bên ngoài có thể tác động lớn đến trong nước. Do đó, chúng ta luôn ở tư thế tích cực, chủ động, linh hoạt ứng phó với các diễn biến mới một cách hiệu quả.

133 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 1430
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 1430
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87152794