|
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng và các đại biểu tới dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương. - Ảnh: VGP |
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo MTTQ Việt Nam, các Ban, Bộ, ngành Trung ương dự Hội nghị.
Từ điểm cầu chính tại trụ sở Chính phủ, Hội nghị được kết nối tới 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
TÓM TẮT CÁC NỘI DUNG CHÍNH
Sáng 28/12, sau khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc, Hội nghị nghe Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo tóm tắt về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới. (chi tiết dưới đây).
Tiếp đó, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020. (chi tiết dưới đây)
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. Theo dự thảo, xác định phương châm hành động của năm 2021 là: "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển ", Chính phủ đề ra 8 trọng tâm chỉ đạo điều hành, 12 chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ, 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực; 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu và 185 nhiệm vụ cụ thể. (chi tiết dưới đây)
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. Dự thảo Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện động bộ tất cả các mục tiêu giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thời đặt trọng tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác. Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh và 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 bốn nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện. (chi tiết dưới đây).
Sau khi nghe các báo cáo nói trên và ý kiến phát biểu của lãnh đạo một số địa phương (Hà Nội, TPHCM), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (chi tiết dưới đây).
Chiều ngày 28/12, Hội nghị nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày Báo cáo tóm tắt kết quả cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử và hoạt động của Tổ công tác năm 2020 và 5 năm 2016-2020 phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (chi tiết dưới đây). Tiếp đó, các địa phương phát biểu tham luận (chi tiết dưới đây).
Sáng 29/12, Hội nghị nghe ý kiến phát biểu của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, các Phó Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị. (chi tiết dưới đây)
Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, trong năm 2020 khó khăn chồng chất khó khăn, chúng ta vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và dấu ấn nổi bật. Mặc dù không hoàn thành được một số chỉ tiêu đề ra từ đầu năm, chủ yếu do nguyên nhân khách quan, nhưng năm 2020 vẫn được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm vừa qua với những kết quả, thành tích đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong việc nêu cao lòng yêu nước, tình đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm 2021 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Chính phủ, chính quyền các địa phương và toàn hệ thống chính trị cần chủ động, tích cực quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện thật tốt ngay từ đầu năm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ bằng những chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, phù hợp với thực tế, có tính khả thi cao, với tinh thần chung là phải chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn các năm trước và nhiệm kỳ trước.
Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Nghị quyết về kế hoạch phát triển KTXH của Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 khoảng 6%, lạm phát khoảng 4%, cùng 10 chỉ tiêu KTXH khác. Những chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở đã tính toán, cân đối các nguồn lực gắn với bối cảnh dự báo cho năm 2021, nhất là tình hình COVID-19 trong nước và thế giới. "Mặc dù để đạt được mục tiêu này là rất thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu trong điều hành GDP 2021 thêm ít nhất 0,5 điểm phần trăm, lên mức 6,5% và đặt quyết tâm cao hơn cho các chỉ tiêu KTXH khác”, Thủ tướng nêu rõ.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh yêu cầu các địa phương không được mất cảnh giác trong công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19. Cần tiếp tục kiểm soát nghiêm ngặt biên giới, nhất là biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Từng gia đình, từng khu dân cư, từng người dân thông báo ngay khi phát hiện các trường hợp nhập cảnh trái phép. Tinh thần là báo động, đề phòng tối đa từ nay tới Tết nguyên đán. Đây là yêu cầu của Chính phủ với các địa phương.
|
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị. - Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
THỦ TƯỚNG KẾT LUẬN HỘI NGHỊ
Kết luận Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao tất cả 63 địa phương đều gửi bài tham luận với 319 kiến nghị cụ thể, trong ngày hôm qua đã có 20 địa phương phát biểu, có 84 kiến nghị về nhiều vấn đề lớn của đất nước, đặc biệt đề xuất các chính sách đặc thù và yêu cầu các bộ và Chính phủ hướng dẫn thực thi. Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với VPCP, các bộ, ngành khẩn trương tiếp thu ý kiến, hoàn chỉnh báo cáo các dự thảo Nghị quyết 01, 02 trình Thủ tướng ký ban hành để triển khai thực hiện ngay từ đầu năm 2021, không để chậm trễ.
Đối với những vấn đề cụ thể không đưa vào nghị quyết, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành khẩn trương nghiên cứu, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và thông báo cho các địa phương, “các đồng chí bộ trưởng, tư lệnh ngành không được im lặng với các đề nghị của các địa phương”. Các đồng chí lãnh đạo các địa phương và các bộ, ngành thường xuyên trao đổi trực tiếp để xử lý vấn đề phát sinh, giải quyết những vấn đề vướng mắc, bức xúc trong sản xuất kinh doanh và đời sống, “không nên cứ phải văn bản qua, giấy tờ lại, gây mất thời gian, mất cả thời cơ xử lý”, “không thể chờ đợi kéo dài, một phong cách làm việc mới phải được đưa ra để chấn chỉnh tình trạng quan liêu”.
Đánh giá kinh tế-xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020, Thủ tướng dẫn lại hai câu thể hiện khái quát nhất, sâu sắc nhất trong phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại hội nghị. Đó là, năm 2020 được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua với những kết quả, thành tích đặc biệt. Những kết quả, thành tích đó đã góp phần làm nên những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện với nhiều dấu ấn nổi bật của nhiệm kỳ 2016-2020 và là thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Thủ tướng nhấn mạnh, mục tiêu kép được thực hiện thành công, vĩ mô ổn định, giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả cao nhất, phát triển văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, cải cách thủ tục hành chính đạt nhiều kết quả, quốc phòng, an ninh đảm bảo, đặc biệt là thành công trong đối ngoại.
Thủ tướng nêu rõ, tại hội nghị này, “chúng ta thống nhất chủ đề năm 2021 là: Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, khát vọng phát triển”. Trên tinh thần đó, chúng ta thống nhất định hướng điều hành và quan điểm chỉ đạo: Trước hết là tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng tốt các thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 và xu hướng dịch chuyển đầu tư thương mại, chuyển đổi số trong khi khu vực và thế giới. Kiên quyết không lùi bước trước khó khăn, thách thức.
Phấn đấu tăng trưởng 6,5% hoặc cao hơn
Về phương hướng thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm. Đó là ngay từ đầu năm nay, phải bắt tay vào việc ngay, không ngừng nghỉ, phải lăn xả vào công việc.
Tiếp tục phát huy hơn nữa giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và khát vọng phát triển. Chính sự đoàn kết, tự hào dân tộc, tinh thần quyết tâm và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của cả hệ thống chính trị và toàn dân sẽ động lực chính đưa đất nước vươn lên, thu hẹp khoảng cách phát triển của khu vực và thế giới.
Để phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững thì phải duy trì nền tảng vĩ mô ổn định, bền vững. Không được để lạm phát cao và các cân đối lớn của quốc gia phải được giữ gìn, vun đắp.
Tiếp tục phấn đấu để Việt Nam luôn là nền kinh tế năng động, sáng tạo, phát triển nhanh nhưng ổn định, bền vững, không để xói mòn các yếu tố nền tảng vĩ mô mà chúng ta đã dày công gây dựng, nhất là trong 5 năm qua.
Cần xác định rõ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng không chỉ tạo nên nền tảng vững chắc cho ổn định vĩ mô mà còn bảo đảm việc làm, thu nhập, tạo nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đồng thời góp phần chống tụt hậu, thu hẹp khoảng cách phát triển. 1% tăng trưởng GDP sẽ giải quyết 300.000 việc làm, “không có việc làm thì người dân thu nhập từ đâu”, Thủ tướng lấy ví dụ.
Chính phủ đã trình Bộ Chính trị, Trung ương và Quốc hội thống nhất mức tăng trưởng khoảng 6% GDP năm 2021. Thực tế trong thảo luận có ý kiến cho rằng nên đặt thấp hơn khoảng 5,5% nhưng cũng có ý kiến cho rằng nên cao hơn, khoảng 6,5-7%, nhiều tổ chức quốc tế còn dự báo khoảng 6,8-7%, thậm chí có tổ chức còn dự báo trên 8%. Trước tình hình thực tế về yêu cầu phát triển, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặt ra mục tiêu phấn đấu trong chỉ đạo điều hành đạt khoảng 6,5% hoặc cao hơn, đồng thời chuẩn bị các yếu tố nền tảng để tăng tốc trong giai đoạn từ 2022 trở đi. “Chúng ta cũng cần lưu ý rằng yêu cầu tăng trưởng kinh tế về số lượng cần phải gắn chặt với nâng cao chất lượng tăng trưởng và đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế”. Tinh thần đặt ra là bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với mặt bằng của khu vực và thế giới, trong đó phấn đấu sớm đưa Việt Nam trở thành một cường quốc nông nghiệp với ngành công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, hiệu quả.
Các bộ, địa phương chú trọng đổi mới quản trị quốc gia, tiếp tục xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền, bảo đảm vai trò quản lý thống nhất của địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương.
"Một câu hỏi đặt ra là quản trị thế nào để một địa phương, một ngành có hiệu quả hay chúng ta chỉ họp suốt mà không có sản phẩm”, Thủ tướng nói. Nhiều địa phương còn lúng túng, chưa biết cách làm phù hợp. “Các địa phương phải làm ngay 2 việc, một là mặt bằng cho phát triển sản xuất, thứ hai là nguồn nhân lực để đón dòng đầu tư mới”.
Nhấn mạnh vai trò của đột phá về kết cấu hạ tầng, yếu tố tạo nên kiềng ba chân, Thủ tướng cho biết, sau hội nghị này, sẽ phát lệnh khởi công một số công trình giao trọng trọng điểm, liên vùng…
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội và mọi thành quả của công cuộc đổi mới đều là vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Do đó, Thủ tướng yêu cầu các cấp, các ngành cần sớm khắc phục những hạn chế, tồn tại, chú trọng hơn nữa các chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, tăng tỉ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để ngày càng nhiều người dân được thụ hưởng.
Cần chú trọng vấn đề phát triển bền vững, xác định rõ và tập trung thực hiện đồng bộ, hài hòa các mục tiêu của tam giác phát triển bền vững: kinh tế, xã hội, môi trường. Kiên quyết không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp gây ô nhiễm, không để trường hợp Formosa thứ hai xảy ra. Không để tình trạng tăng trưởng nhanh nhưng phải trả giá đắt vì ô nhiễm môi trường để con cháu chúng ta sau này phải gánh chịu. Thủ tướng hoan nghênh Bộ NNPTNT có kế hoạch phát động trồng 1 tỷ cây xanh.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hệ thống hành chính nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân, “một hệ thống gần dân, lắng nghe, phục vụ dân từ công an xã đến cán bộ trung cấp, cao cấp của huyện, tỉnh và các Bộ, ngành”.
Tiếp tục củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển trong đó các loại tội phạm phòng, chống cháy nổ chắc là dịp Tết, trước hết giảm hẳn tỷ lệ trẻ em chết đuối nước và tai nạn giao thông.
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố khẩn trương ban hành kế hoạch cụ thể của các bộ, ngành, địa phương trước ngày 20/1/2021, “tổ chức triển khai phải quyết liệt, đồng bộ mà dân gian nói là sát sạt, chứ không nói chung chung đại khái, quan liêu”.
Về đón Năm mới 2021 và Tết Nguyên đán, Thủ tướng đề nghị không được lơ là trong phòng chống COVID-19, quản lý thị trường ổn định, bảo đảm cung cầu hàng hóa cho Tết. Đặc biệt không tổ chức đi chúc Tết cấp trên và lãnh đạo các cấp, nghiêm cấm biếu, tặng quà Tết cho lãnh đạo dưới mọi hình thức, không sử dụng xe công, tiền công vào hoạt động lễ hội, vui chơi.
Tất cả các bộ, đặc biệt các địa phương rà soát tất cả các mặt để lo cho người dân đón Tết vui tươi, an toàn, nhất là người yếu thế, vùng khó khăn, vùng thiên tai.
Chúng ta làm kế hoạch 2021 nhưng cũng phải nghĩ dài hơi hơn, đó là quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch quốc gia, kế hoạch đầu tư trung hạn 2021-2025. “Tôi nói ví dụ như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam như thế nào, đường sắt từ TP.HCM đi miền Tây Nam Bộ thế nào, đường cao tốc từ Tây Nguyên xuống duyên hải miền Trung sẽ có phương án nào trong tương lai”. Cho nên từng cấp, từng ngành phải gỡ nút thắt để bừng lên sự phát triển bền vững, một tinh thần là không được để người dân và doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế mất niềm tin vào Chính phủ, vào Bộ trưởng, vào Chủ tịch, Bí thư các tỉnh, thành phố.
Bày tỏ tôi tin tưởng sẽ thực hiện thành công kế hoạch năm 2021 và giai đoạn 2021-2025, Thủ tướng kêu gọi, hãy “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, hãy tiếp tục bản lĩnh, ý chí, khí chất của người Việt Nam và áp dụng mạnh mẽ công nghệ vào sản xuất kinh doanh và đời sống để nâng cao năng suất.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho rằng phải kiên quyết thực hiện mục tiêu kép, thực hiện phương châm đã được Chính phủ đề ra. Tiếp tục 3 đột phá chiến lược trên nền tảng khát vọng phát triển. Công tác xây dựng thể chế đòi hỏi phải có đột phá mới, đẩy mạnh tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thể chế, trong đó lưu ý giải pháp một luật sửa nhiều luật, một nghị định sửa nhiều nghị định.
Về hạ tầng, không chỉ tập trung cho hạ tầng giao thông mà còn có hạ tầng cho các lĩnh vực khác, trong đó có hạ tầng kinh tế số.
Chủ động phòng tránh các vụ khiếu kiện đầu tư, thương mại quốc tế. Cơ chế phối hợp giải quyết các vụ việc này đã được Thủ tướng ban hành, các địa phương cần tập trung xử lý các vướng mắc ngay từ ban đầu, Bộ Tư pháp chủ trì xử lý vấn đề này cho thật tốt.
Tiếp tục kéo giảm tai nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí. Chuẩn bị đón Tết an toàn, tiết kiệm.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh phát biểu về công tác giải ngân nguồn vốn ODA, trong giai đoạn vừa qua, chúng ta chưa sử dụng được hết nguồn lực rất quan trọng này. Giai đoạn sắp tới, nguồn vốn ODA rất hạn hẹp với lãi suất cao hơn, do đó, khi tính toán phương án vay ODA phải tính toán rất kỹ và phải đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu thêm một số nội dung về phòng chống COVID-19. Theo Phó Thủ tướng, với nguy cơ lây nhiễm từ bên ngoài, thì từ nay đến mùa hè sang năm, tình hình dịch bệnh vẫn căng thẳng như hiện nay, cho dù có vaccine. Nguồn bệnh từ bên ngoài vào là cơ bản, vì vậy, ngoài tăng cường kiểm soát chặt chẽ biên giới, chúng ta cần có hệ thống để người dân cung cấp thông tin, phản ánh những người có dấu hiệu nhập cư hoặc di chuyển không đúng quy định.
“Tất cả các cấp ủy Đảng, chính quyền vận động người dân, đề nghị báo chí vào cuộc để mọi người dân có người thân ở nước ngoài chủ động thông tin cho người thân của mình tuyệt đối không nhập cảnh trái phép. Không vì ngại cách ly của riêng mình mà gây họa cho cộng đồng, và cả đất nước”, Phó Thủ tướng nói.
Nhắc lại trường hợp của BN1342 ở TPHCM, Phó Thủ tướng đề nghị các địa phương phải thực hiện thật nghiêm việc theo dõi, giám sát y tế đối với người đã hoàn thành cách ly tập trung. Chính quyền cơ sở, nòng cốt là công an, y tế, phải nắm được từng người. Mỗi ngày ít nhất một lần gọi điện thoại, nhắn tin cho những người này để nắm được tình trạng sức khỏe cũng như việc tuân thủ quy định cách ly tại nhà sau khi cách ly tập trung.
Phó Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ ngành, địa phương phải đẩy nhanh việc định kỳ tự đánh giá việc thực hiện các biện pháp chống dịch, cập nhật lên bản đồ chống dịch (antoancovid.vn), bắt đầu từ các cơ sở y tế, trường học, cơ sở lưu trú, sắp tới mở rộng ra phương tiện giao thông, trung tâm thương mại, chợ, nhà máy… Hiện nay, ngành giáo dục rất tích cực triển khai và đã có hơn 40.000 trường học tự đánh giá và cập nhật thông tin hàng ngày.
Theo Phó Thủ tướng, đây là giải pháp rất cơ bản vừa phục vụ trực tiếp cho hoạt động phòng chống dịch, vừa lan tỏa tinh thần chống dịch ra toàn xã hội. Bên cạnh đó, việc cập nhật thông tin lên bản đồ chống dịch còn góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về từng ngành như giáo dục, y tế, giao thông vận tải, thương mại… phục vụ cho công tác điều hành, quản lý nhà nước, chuyển đổi số sau này.
“Ngay sau khi ghi nhận ca bệnh từ Myanmar về (BN1440), chúng ta đã nhanh chóng huy động các lực lượng vào cuộc, nhanh chóng xác định được tất cả những người đi cùng BN1440. Qua đó xác định 3 người dương tính với virus SARSR-CoV-2, 2 người âm tính, 1 người đang chờ kết quả xét nghiệm. Tất cả hệ thống sẵn sàng, đồng bộ như vậy thì mới có thể giữ được an toàn, để nhân dân được đón tết an toàn, vui tươi”, Phó Thủ tướng nói.
Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, việc thực hiện nhiệm vụ năm 2021 không chỉ cho năm 2021 mà còn chuẩn bị cho các năm sau, đặc biệt là vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản.
Phó Thủ tướng lưu ý công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch; tập trung lập quy hoạch tổng thể quốc gia, đất đai, quy hoạch vùng và quy hoạch của các Bộ quản lý chuyên ngành, các quy hoạch tỉnh, để cơ bản xong trong năm 2021.
Cùng với đó, dự trù các nguồn vốn, kế hoạch thực hiện cụ thể với các dự án.
Các địa phương, bộ ngành tập trung phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Tập trung thực hiện các thủ tục đầu tư, tránh tình trạng dự án 5 năm thì mất 2 năm chuẩn bị.
Cuối cùng, đẩy nhanh tháo gỡ khó khăn cho những dự án chậm tiến độ về thủ tục, giải phóng mặt bằng, nguồn vốn…
Sau phần phát biểu tham luận của các Bộ trưởng, đồng chí Hầu A Lềnh, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát biểu tại Hội nghị, nêu bật những kết quả đạt được trong sự phối hợp, ủng hộ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
CÁC 'TƯ LỆNH NGÀNH' NÊU CÁC ĐỊNH HƯỚNG LỚN
Tham nhũng từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm
Theo Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái, về công tác thanh tra, năm 2021, ngành Thanh Tra đề nghị các ngành, các cấp trong hệ thống thanh tra tăng cường thanh tra trách nhiệm, nhất là đối với những ngành, lĩnh vực có dấu hiệu vi phạm, dư luận phản ánh tiêu cực, tham nhũng, phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo; thanh tra chuyên ngành tập trung vào các vấn đề bức xúc của xã hội, có nhiều vi phạm.
|
Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Đồng thời, nâng cao hiệu lực hiệu quả trong hoạt động thanh tra, kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật, chấn chính công tác quản lý nhà nước, kiến nghị hoàn thiện, chính sách pháp luật trên các lĩnh vực thanh tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời đúng quy định pháp luật đối với tập thể, cá nhân vi phạm, thu hồi tài sản chiếm đoạt, thất thoát về cho nhà nước.
Thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết liên quan đến hoạt động thanh tra, đặc biệt là Nghị quyết 84 của Chính phủ, Chỉ thị 20 của Thủ tướng Chính phủ…
Đối với công tác tiếp công dân, giải quyết kiếu nại tố cáo, Thanh tra Chính phủ đã lập danh sách các vụ việc đông người, tổ chức Hội nghị với địa phương. Thủ tướng đã thành lập Tổ công tác do Phó Thủ tướng Thường trực làm Tổ trưởng, sau 1 năm đã làm việc với 10 địa phương xử lý nhiều vụ việc phức tạp. Tình hình khiếu nại tố cáo cả nước trong năm 2020 đã giảm đáng kể về các chỉ số: số lượng người khiếu nại, số đơn, đoàn phức tạp đông người.... Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, các địa phương vào cuộc tích cực nên giải quyết dứt điểm từ cơ sở.
Năm 2021, Thanh tra Chính phủ đề nghị các bộ ngành, địa phương tiếp tục quan tâm, vào cuộc tích cực hơn đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; thực hiện chủ trương, các kế hoạch của Chính phủ Thanh tra Chính phủ trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo phục vụ Đại hội Đảng; các địa phương, bộ ngành phối hợp với Thanh tra Chính phủ giải quyết dứt điểm các vụ việc mới phát sinh từ cơ sở, quan tâm đến những vụ việc đang tồn đọng cũ, giải quyết dứt điểm những việc cũ, góp phần làm giảm tình hình khiếu nại phức tạp đông người…
Thời gian qua, phòng chống tham nhũng đạt được kết quả tích cực với sự vào cuộc quyết liệt của Trung ương, Chính phủ và các bộ, ngành. Tình hình tham nhũng từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm. Tổ chức Minh bạch Thế giới đánh giá năm 2019 chúng ta đã tăng 27 bậc so với năm 2012, thể hiện sự chuyển biến tích cực trong công tác phòng chống tham nhũng. Tuy nhiên công tác này rất phức tạp, cần kiên trì đấu tranh lâu dài, các giải pháp cần tiếp tục đẩy mạnh.
Hiện nay, dư luận quan tâm tình trạng nhũng nhiều, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết các công việc, do đó đề nghị các bộ ngành, địa phương cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề này trong thực hiện thủ tục hành chính, công khai minh bạch để ngăn chặn tình trạng này.
Biên chế công chức giảm 8,7%
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho biết, lĩnh vực cải cách hành chính được Chính phủ, Thủ tướng rất quan tâm. Về thể chế, đã ban hành nhiều nghị định, nghị quyết về quản lý công chức, viên chức, về tổ chức.
|
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Về sắp xếp, tổ chức bộ máy hành chính, trong năm 2020, các bộ ngành Trung ương và địa phương từng bước sắp xếp cơ cấu bên trong, giảm đáng kể đầu mối, thực hiện tinh giản biên chế (biên chế công chức giảm được 8,7% trong năm 2020…).
Về hiện đại hóa nền hành chính, trong thời gian, Chính phủ điện tử có bước chuyển biến rất tích cực, tỷ lệ thủ tục hành chính cung cấp trực tuyến mức độ cấp 3,4 ở các địa phương đạt 55,90%... Tuy nhiên, việc xử lý văn bản pháp luật ở một số nơi vẫn còn chậm, chế độ báo cáo của một số bộ chưa chuẩn hóa được với hệ thống báo cáo Chính phủ. Tình trạng trễ hẹn giải quyết, trao trả kết quả ở một số lĩnh vực còn xảy ra như xây dựng, đất đai…
Năm 2021, Bộ sẽ tổng kết nhiều chương trình, đề án về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức. Bộ Nội vụ sẽ tham mưu cho Chính phủ tổng kết những chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, chuẩn bị xây dựng chương trình cải cách tiếp theo; tham mưu cho Chính phủ trình Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cơ cấu, số lượng, tổ chức đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp; tham mưu cho Chính phủ ban hành Chỉ thị để chỉ đạo về bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân, xây dựng thông tư hướng dẫn… Bộ đề nghị các địa phương quyết liệt hơn nữa trong công tác bầu cử sắp tới.
Với đề nghị của các địa phương về tăng thêm biên chế giáo viên, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Bộ GD&ĐT tổng hợp và báo cáo Chính phủ cho ý kiến; về xây dựng các Nghị định về chính quyền đô thị, đã trình Chính phủ và đang xin ý kiến thành viên Chính phủ…
Có thể triển khai ngay Chính phủ số từ năm 2021
Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, chuyển đổi số là sự phát triển tiếp theo của ứng dụng CNTT, nhưng là sự phát triển mang tính đột phá. Đột phá ở chỗ, nó đưa mọi hoạt động lên môi trường số toàn dân, toàn diện, tạo ra một không gian hoàn toàn mới, nó thay đổi cách chúng ta vận hành công việc và cuộc sống, đột phá ở chỗ càng dùng thì càng rẻ, càng dùng thì càng giỏi và công nghệ phát triển, dám thay đổi và phát triển mô hình mới, các nước đi sau sẽ ứng dụng mạnh mẽ hơn, nhanh hơn những nước đi trước, nơi nào khó khăn thì ứng dụng sẽ hiệu quả hơn, nó làm cho những nghèo nhất có thể tiếp cận được những dịch vụ tốt nhất nhưng với giá rất rẻ, mỗi người, người hộ dân, mỗi doanh nghiệp nhỏ có thể tiếp cận thị trường toàn quốc, toàn cầu thúc đẩy mọi người có thể kinh doanh và làm giàu…
|
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Chuyển đổi số là một điểm mới, vì vậy phải có nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia, là chương trình xây dựng chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, là chương trình chuyển đổi số đồng thời các ngành và các địa phương. Đây là sự tiếp nối, cụ thể hóa Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Cấp ủy, các Bộ, ngành cùng các địa phương sớm ban hành nghị quyết chuyên đề về chuyển đổi số và sau đó, cấp chính quyền ban hành chương trình về chuyển đổi số. Hiện nay có gần 30 Bộ, ngành và tỉnh thành đã ban hành nghị quyết về chuyển đổi số.
Để đẩy nhanh chuyển đổi số thì hạ tầng số phải đi trước. Đó là mỗi người dân có ít nhất 1 điện thoại thông minh, mỗi hộ gia đình một đường internet cáp quang tốc độ cao, mỗi gia đình một địa chỉ số. Vấn đề này, địa phương cần chỉ đạo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bưu chính viễn thông làm.
Chuyển đổi số cần đầu tư nhưng không nhiều, khoảng từ 1-1,5% ngân sách hàng năm và 10% số này là dành cho an toàn, an ninh mạng. Nền tảng số nào hiệu quả, giá thị trương bao nhiêu thì có thể tham vấn Bộ TT&TT. Thuê dịch vụ, thuê hạ tầng là cách tiếp cận tốt hơn là tự đầu tư, tự vận hành khai thác.
Về triển khai, thay vì làm dần dần, làm từng phần thì làm ngay, làm toàn diện, đặt mục tiêu cao và làm nhanh. Đây là sự khác biệt căn bản giữa cách tiếp cận CNTT và chuyển đổi số.
Cách để làm nhanh là sử dụng các nền tảng số. Một nền tảng số có thể dùng chung cho cả trăm triệu người.
Trong tháng 1/2021, dưới sự chỉ đạo của Bộ TT&TT và các Bộ liên quan, các doanh nghiệp số của Việt Nam sẽ công bố các nền tảng chuyển đổi số cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho hợp tác xã, hộ kinh doanh… cũng như một số nền tảng chuyển đổi số cho ngành, nhất là y tế, giáo dục… và miễn phí từ 6 tháng đến 1 năm.
Về dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, không làm tuần tự mà hướng ngay đến mục tiêu 100%, trong quý I/2021, 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Về triển khai về chính quyền số, không nhất thiết phải làm xong Chính phủ điện tử mới làm Chính phủ số mà có thể triển khai ngay Chính phủ số từ năm 2021. Bộ TT&TT sẽ tư vấn về cách làm nhanh và tiết kiệm.
Nhân lực chuyển đổi số chủ yếu do làm mà ra, chứ không phải do đào tạo mà ra. Các tỉnh ưu tiên người có chuyên môn, có tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, để tăng cường cho Sở TT&TT, giao cho Sở làm hạt nhân để thực hiện chuyển đổi số tại tỉnh…
Có việc gì khó khăn, cần tháo gỡ trong lĩnh vực TT&TT, thì các địa phương yêu cầu Bộ TT&TT hỗ trợ càng nhanh càng tốt, vì Bộ sinh ra là để phục vụ các địa phương. Bộ TT&TT không chỉ hỗ trợ về hướng dẫn, tháo gỡ chính sách, mà còn phản ứng nhanh, có thể hỗ trợ từ xa, cầu truyền hình hoặc trực tiếp đến tận nơi để cùng làm với các địa phương.
Lực lượng gần 60.000 doanh nghiệp số Việt Nam có năng lực và sẵn sàng tham gia các chương trình chuyển đổi số. Các Bộ, ngành, địa phương chỉ cần đặt ra các bài toán các vấn đề của mình cho giới doanh nghiệp số Việt Nam, có thể trực tiếp hoặc thông qua Bộ TT&TT.
Bộ TT&TT khuyến nghị các Bộ, ngành và địa phương trong nhiệm kỳ tới chọn đột phá là công nghệ, nhất là công nghệ số, đưa công nghệ số vào mọi ngõ ngách của kinh tế, xã hội…
Xây dựng hệ thống pháp luật chất lượng cao
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho rằng, thời gian qua, công tác pháp luật và tư pháp đã trực tiếp và gián tiếp góp phần vào sự phát triển của kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội của đất nước.
|
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Về một số hạn chế, Bộ trưởng cho biết, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, tính dự báo khả thi của một số văn bản pháp luật còn hạn chế, việc thi hành một số văn bản còn chưa hiệu quả, tranh chấp quốc tế có xu hướng tăng về số lượng và độ khó.
Những nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2021 và nhiệm kỳ tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ được giao, đồng thời kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các địa phương quan tâm công tác xây dựng pháp luật. Tinh thần thực sự coi trọng công tác xây dựng thể chế, tổ chức thi hành pháp luật cần được kế thừa một cách nhất quán trong điều hành, chỉ đạo của Chính phủ và chính quyền địa phương trong nhiệm kỳ tới.
Thứ hai là tập trung xây dựng hệ thống pháp luật chất lượng cao, thể hiện rõ tính công bằng, thống nhất, đồng bộ, ổn định, dễ tiếp cận, đặc biệt có chi phí thấp, có sức cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo…
Thứ ba là đảm bảo tính đồng bộ giữa cải cách kinh tế, cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dễ tiếp cận, tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp, phát triển mạnh hệ thống dịch vụ pháp lý, nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại…
Đề xuất vùng giàu giúp vùng nghèo
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung bày tỏ, trong khi nhiều nước trong khu vực và thế giới suy thoái, Việt Nam đã kiên định phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo quyền an sinh của mọi người dân. Chính sách an sinh phát triển vượt bậc, đối tượng thụ hưởng chính sách mở rộng, mức an sinh cũng tăng lên.
|
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Đã có đến 99,7% hộ gia đình người có mức sống bằng và trên trung bình ở khu vực cư trú. Không còn hộ nghèo là hộ người có công. Người cao tuổi và khuyết tật được quan tâm. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam đứng 110/189 quốc gia, đạt mức phát triển cao. Chỉ số nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đứng phía sau Singapore trong khu vực. Chúng ta về đích sớm 10 năm về chỉ số giảm nghèo đa chiều so với Mục tiêu thiên niên kỷ. Chúng ta là 1 trong 30 quốc gia áp dụng chuẩn nghèo đa chiều được quốc tế công nhận. Việt Nam hiện là 1 trong 10 quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay độ bao phủ an sinh còn thấp, nhất là bao phủ BHXH với người già, người lao động khu vực nông nghiệp, chênh lệch giàu nghèo vẫn cao nên giảm hiệu quả giảm nghèo và triển vọng tăng trưởng, việc làm chưa thực sự bền vững, tình trạng bạo hành, xâm hại trẻ em vẫn diễn biến phức tạp.
Bộ trưởng cho rằng, trong 5 năm tới cần nhất quán quan điểm đặt con người là mục tiêu và động lực phát triển, kiến tạo môi trường mà mọi người cùng có cơ hội phát triển.
Phát triển an sinh xã hội bền vững với 3 trụ cột: kỹ năng lao động, việc làm, an sinh bền vững cùng với bao phủ BHXH và BHYT để bảo vệ những người yếu thế trong xã hội với phòng - chống - khắc phục rủi ro.
Chăm lo cho người có công, nâng mức thụ hưởng cho người già, người khuyết tật và trẻ em. Kiên quyết xử lý các hành vi xâm hại, ngược đãi phụ nữ và trẻ em.
Bộ trưởng cũng cho biết, chương trình MTQG về giảm nghèo sẽ điều chỉnh chuẩn nghèo 2021. Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ trưởng Bộ Tài chính đã thống nhất và sẽ sớm trình Chính phủ điều chỉnh chuẩn nghèo giai đoạn 2021 – 2026, dự kiến 1,5 triệu đồng/ tháng khu vực nông thôn và 2 triệu đồng/ tháng khu vực thành thị, thời gian áp dụng điều chỉnh cùng chính sách cải cách tiền lương.
Để tiếp tục đẩy mạnh chương trình giảm nghèo, nhất là ở vùng lõi nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Bộ trưởng nêu một số giải pháp như các địa phương đẩy mạnh phát triển kinh tế; phân loại hộ nghèo, tách những người không thể thoát nghèo sang hưởng chính sách bảo trợ xã hội; phân công vùng kinh tế giàu giúp vùng kinh tế nghèo như đề xuất của Bộ trưởng Công an Tô Lâm. Trước mắt, đề nghị MTTQ Việt Nam cùng các cấp uỷ chính quyền phối hợp để cùng lo cho các hộ nghèo đón Tết đầm ấm.
Việt Nam đạt nhiều giải thưởng du lịch danh giá
Theo Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Ngọc Thiện, năm 2020 là năm gặp nhiều khó khăn nhất, bị ảnh hưởng và tác động nặng nề nhất đối với ngành, tuy nhiên toàn ngành đã đạt một số kết quả.
|
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Du lịch chịu ảnh hưởng, tác động ảnh hưởng nặng nề nhất. Thế giới sẽ giảm 70-75% khách du lịch quốc tế, thất thu 1,1 nghìn tỷ USD. Đối với du lịch Việt Nam giảm 80% khách quốc tế, giảm 60% khách nội địa, thiệt hại 23 tỷ USD.
Nằm chung khó khăn chung của thế giới, tuy nhiên, toàn ngành đã phát động 2 đợt kích cầu du lịch nội địa vào tháng 5 và tháng 9 đã đạt kết quả quan trọng.
Du lịch Việt Nam cũng đã giành giải thưởng du lịch khu vực Châu Á, vượt qua một số nước, Việt Nam được bình chọn ở 3 hạng mục điểm đến di sản hàng đầu Châu Á, điểm đến văn hóa hàng đầu Châu Á và điểm đến ẩm thức hàng đầu Châu Á, đây là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam nhận được bình chọn này, các doanh nghiệp du lịch cũng giành được nhiều giải thưởng danh giá khác.
Năm 2021, ngành tập trung phát triển du lịch nội địa bằng các chương trình kích cầu liên tục, sẵn sàng mở cửa du lịch quốc tế khi điều kiện cho phép.
|
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng. Ảnh VGP |
2021: Ngân hàng giảm chỉ tiêu lợi nhuận để giảm lãi vay
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, trong thời gian qua, hệ thống Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp và đạt được nhiều kết quả, tích cực trên các mặt hoạt động, có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ba vấn đề mà Ngân hàng Nhà nước cho rằng rất thiết thực cho doanh nghiệp, người dân. Thứ nhất, trong 5 năm qua, Ngân hàng Nhà nước luôn kiên định mục tiêu kiềm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành đồng bộ các công cụ, giải pháp chính sách tiền tệ đúng thời điểm, hợp lý để phản ứng nhanh nhạy, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế thế giới và trong nước, kết quả đã góp phần kiểm soát lạm phát bình quân dưới mức 4% theo đúng mục tiêu Quốc hội đề ra, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao so với các nước trên thế giới và khu vực.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối, vàng cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất cho vay trong 5 năm qua giảm 3,7% so với giai đoạn 2011-2015, tỷ giá và thị trường ngoại hối tương đối ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao, tình trạng đô la hóa giảm dần, niềm tin vào đồng Việt Nam ngày càng được củng cố. Đây là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao xếp hạng tín nhiệm của quốc gia.
Cùng với việc điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, 5 năm qua, Ngân hàng Nhà nước quan tâm chỉ đạo toàn hệ thống cải cách thủ tục hành chính, bởi vậy 5 năm liền Ngân hàng Nhà nước đứng đầu trong số các bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính, qua đó góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân theo chủ trương của Chính phủ.
Thứ hai, với vai trò là huyết mạnh của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, từ đó nâng cao hiệu quả trung chuyển vốn cho nền kinh tế. Chính sách tín dụng của ngân hàng nhà nước đã đi đúng hướng, bình quân tín dụng tăng 15%/năm, riêng năm 2020 ước tăng khoảng 11%. Đây là mức tăng phù hợp trong bối cảnh cầu tín dụng còn thấp do tác động của COVID-19.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, đa dạng hóa, nâng cao chất lượng các dịch vụ thanh toán, thực hiện các giải pháp an ninh, bảo mật hệ thống thông tin, bảo đảm thanh toán an toàn, hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân.
Thứ ba, năm 2020, trước bối cảnh doanh nghiệp, người dân tác động nặng nề do dịch bệnh, thiên tai, bão lũ, hạn mặn, Ngân hàng Nhà nước đã đặt nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh là trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành, vào cuộc rất sớm như: Ban hành Thông tư 01 cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi và cho phép giữ nguyên nhóm nợ… Đến 14/12, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại nợ cho khoảng 270.000 khách hàng, với dư nợ gần 355.000 tỷ đồng…
Năm 2021, ngành Ngân hàng tập trung vào các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, thiên tai, bão lũ, và biến đổi khí hậu, tái cấp vốn cho ngân hàng chính sách xã hội để hỗ trợ người lao động, tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, giảm chỉ tiêu lợi nhuận để có điều kiện giảm lãi suất cho vay, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, thúc đẩy, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để phản ứng kịp thời đảm đảm cung ứng đầy đủ thanh khoản cho nền kinh tế, sử dụng đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để bảo đảm đạt mục tiêu lạm phát bình quân khoảng 4% theo Quốc hội đề ra, thực hiện chủ trương không ai bị bỏ lại phía sau...
6 năm qua không có bong bóng bất động sản
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà cho biết năm 2020, ngành Xây dựng tăng trưởng 6,6 %, cao nhất trong các ngành kinh tế. Tỷ lệ đô thị hoá vượt mục tiêu, trong 5 năm có 7 đô thị mới, hiện nay cả nước đã có 862 đô thị và phân bố đồng đều trên cả nước, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
|
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Mặt khác, 6 năm qua, hầu như không có bong bóng bất động sản, dù đã thu hút 17 tỷ USD vốn FDI, chúng ta đã có nhiều khu đô thị, khách sạn, resort mang tầm quốc tế và hơn nhiều nước trong khu vực.
Công tác sản xuất vật liệu xây dựng cũng phát triển mạnh, nhiều công trình tỷ lệ nội địa hoá đã đạt đến 90 – 100%, nhiều vật liệu cạnh tranh ngang ngửa với thế giới.
“Có thể tự hào nói rằng hiện ngành xây dựng hoàn toàn có đủ năng lực để tự thiết kế và thi công mọi công trình, mọi quy mô đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước”, Bộ trưởng phát biểu. Tuy nhiên, cũng còn những hạn chế về chất lượng phát triển đô thị, quy hoạch, trật tự đô thị và bản sắc chưa rõ trong kiến trúc đô thị và nông thôn.
Về nhiệm vụ năm 2021, Bộ trưởng nhắc tới các vấn đề về quy hoạch đô thị, vốn đầu tư cho hạ tầng và hạ tầng cần hướng tới kết nối vùng. Triển khai Luật Kiến trúc. Dành đủ quỹ đất cho nhà ở xã hội. Hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho người có công.
Về các đề xuất đáng lưu ý nhất của địa phương đề nghị Bộ là phê quyệt quy hoạch đô thị và tháo gỡ vướng mắc pháp luật để triển khai các dự án bất động sản, Bộ Xây dựng tiếp thu và sẽ có văn bản gửi từng địa phương.
Xây dựng nền y tế thông minh
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long, ngoài kết quả phòng chống COVID-19, trong năm 2020, ngành Y tế được đánh giá là điểm sáng của chương trình chuyển đổi số quốc gia với việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng thành tựu số trong y học, tận dụng cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ 4, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ của ngành.
|
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Trong phòng chống đại dịch COVID-19, các ứng dụng khai báo y tế kiểm soát dịch bệnh, ứng dụng truy vết, bản đồ an toàn COVID-19 đã được áp dụng rộng rãi.
Dự kiến đầu tháng 3 tới, sẽ khai trương chương trình điều hành điện tử trạm y tế xã với trên 10.600 trạm và đặc biệt 98 triệu hồ sơ sức khỏe cá nhân đã được tạo lập trong hơn 5 tháng qua, tiến tới đăng ký khám chữa bệnh trực tuyến, khám điều trị ngoại trú không dùng giấy, giúp người dân theo dõi được tình trạng sức khỏe của mình và xây dựng một nền y tế thông minh...
Ngành Y tế đang biến nguy thành cơ, bắt đầu bước vào chặng đường đổi mới mạnh mẽ toàn diện ngành y tế để phục vụ người dân được tốt hơn; đổi mới mạnh mẽ chất lượng khám chữa bệnh; đổi mới phương thức chi trả bảo hiểm y tế; đổi mới cơ chế tài chính, cơ chế đầu tư; tiếp tục sắp xếp hệ thống y tế một cách phù hợp hiệu quả; hình thành các khu công nghiệp Dược công nghệ cao, thu hút đầu tư sản xuất trang thiết bị y tế trong nước…
|
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể. Ảnh VGP |
Sắp hoàn thành 8 dự án lớn kéo dài nhiều năm
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết năm 2020, Thủ tướng đã chủ trì rất nhiều cuộc họp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của xây dựng cơ bản. Kết quả, giải ngân xây dựng cơ bản tốt nhất nhiệm kỳ, nếu không muốn nói là tốt nhất trong 10 năm qua, đạt tỷ lệ 90%, khoảng 600 nghìn tỷ. Riêng Bộ GTVT đã giải ngân 36 nghìn tỷ trong tổng số 40 nghìn tỷ đồng và phấn đấu giải ngân 100%.
Bộ trưởng nhắc tới nhiều dự án chuẩn bị hoàn thành trong thời gian tới, tuyến đường Vàm Cống – Rạch Sỏi, hầm Hải Vân 2, các dự án đường băng Nội Bài, Tân Sơn Nhất, cầu Cửa Hội, sửa chữa cầu Thăng Long… Bộ cũng đã hoàn thành 35 trạm thu phí tự động không dừng, nâng lên 100 trạm và còn 17 trạm đang phấn đấu hoàn thành. Phấn đấu nhanh nhất có thể hoàn thành đường sắt Cát Linh – Hà Đông; vận hành dự án Trung Lương – Mỹ Thuận…
Đây là 8 dự án phấn đấu nhiều năm và nay đã cơ bản hoàn thành.
Đồng thời, Bộ chuẩn bị khởi công nhiều dự án, trước hết là khởi công gói thầu xây lắp đầu tiên của sân bay Long Thành vào đầu năm mới; dự án Quốc lộ 19 nối Kon Tum - Bình Định, dự án tuyến tránh Long Xuyên, tuyến Lai Châu – Lào Cai… Tổng cộng, có 8 dự án chuẩn bị khởi công để công tác đầu tư xây dựng cơ bản năm 2021 tốt hơn.
Bộ trưởng cũng nhắc tới hàng loạt dự án được thúc đẩy thời gian tới, trong đó có 4 dự án tại Đông Nam Bộ và 5 dự án tại ĐBSCL. Riêng hàng không tập trung vào sân bay Điện Biên, Chu Lai, Côn Đảo...
Bố trí đủ nguồn lực phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết, năm 2020, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã hoàn thành 3 việc trọng tâm rất lớn.
|
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Thứ nhất, đó là triển khai thực hiện đồng bộ hiệu quả các chính sách đang còn hiệu lực để góp phần phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đóng góp vào thành tích chung. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao nhưng mức sống đã được nâng lên. Số hộ thiếu đói giảm 75,9% so với năm 2019. Năm 2020, Chính phủ, Thủ tướng đã xuất 733 nghìn tấn gạo để bảo đảm an sinh, xã hội, chủ yếu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Đây là sự quan tâm lớn.
Nhiệm vụ thứ hai, triển khai kết luận của Bộ Chính trị, Ủy ban Dân tộc đã tham mưu cho Chính phủ hoàn thành xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025, đã hoàn thành nghiên cứu báo cáo khả thi, trình Hội đồng thẩm định Nhà nước. Tới đây sẽ trình Thủ tướng phê duyệt, được sự phối hợp của Bộ KH&ĐT, nguồn lực đã được bố trí đủ.
Thứ 3, tổ chức thành công đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ hai, tạo ấn tượng, sức lan tỏa lớn, tinh thần đại đoàn kết được nâng lên tầm cao mới, truyền khát vọng vượt khó vươn lên…
“Chưa khi nào chính sách dân tộc được chỉ đạo đồng bộ, khởi sắc như thời điểm hiện nay”, Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh.
Năm 2021, Ủy ban Dân tộc tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, đó là triển khai, thực hiện đồng bộ, hiệu quả đề án tổng thể, chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2025; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tiếp tục khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, ổn định đời sống, khôi phục cơ sở hạ tầng, tạo sinh kế ổn định cho đồng bào; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương vận động đồng bào thực hiện 3 việc lớn do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: chặn đứng tình trạng khai thác, chặt phá rừng tự nhiên, trồng 1 tỷ cây xanh, ngăn chặn nhập cảnh trái phép qua đường mòn, lối mở để bảo đảm an ninh trật tự, nhất là cùng với lực lượng chức năng phòng chống dịch COVID-19.
|
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ. Ảnh VGP |
Giải quyết căn bản tình trạng thiếu giáo viên
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ cho biết, năm 2021, ngành giáo dục tiếp tục thực hiện mục tiêu kép, trong đó phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho sức khỏe cho học sinh, sinh viên và cán bộ giáo viên… Đồng thời tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết 88 về đổi mới sách giáo khoa theo lộ trình, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, trước hết phải giải quyết căn bản tình trạng thiếu giáo viên, nhất là giáo viên mầm non.
“Chúng tôi cũng đề nghị các địa phương rà soát, xây dựng đề án phát triển giáo viên trong 5 năm tới để chủ động nguồn nhân lực. Bộ GD&ĐT sẵn sàng chủ động cùng các địa phương thực hiện.”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Rà soát sắp xếp trường lớp tinh gọn nhưng phải đảm bảo chất lượng giáo dục, tránh tình trạng có học sinh nhưng không có giáo viên.
Cũng theo Bộ trưởng, nhiều địa phương đưa ra các chỉ số về xã hội kinh tế trong 5 năm tới, cần quan tâm hơn vấn đề nguồn nhân lực. Bộ GD&ĐT sẽ cùng với các địa phương tính toán nhu cầu, trình độ cho nhu cầu phát triển địa phương. Theo đó, rà soát sắp xếp mạng lưới cơ sở đào tạo tại địa phương một cách hợp lý, tiến tới sắp xếp mạng lưới cơ sở đào tạo trên toàn quốc.
Cuối cùng, ngành giáo dục đang thực hiện chuyển đổi số rất mạnh. Tới đây, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ TT&TT và các Bộ, ngành khác cùng các địa phương đẩy mạnh vấn đề này, trong đó xây dựng chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, kết nối toàn ngành, để đảm bảo thủ tục hành chính trong ngành giáo dục phải được thực hiện thuận lợi trên môi trường số.
|
Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh. Ảnh VGP |
Vượt qua 3 thách thức rất lớn
Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh khẳng định lại, năm 2020 là năm thành công nhất của chúng ta trong 5 năm (2015-2020). Trong năm nay có 3 thách thức rất lớn, chúng ta đã đối mặt và vượt qua thành công.
Thứ nhất, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp trên thế giới, ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, thiên tai, dịch bệnh xảy ra từ đầu năm và kéo dài trong cả năm ở nhiều địa phương, khu vực.
Thứ ba, những cạnh tranh về chính trị và những bảo hộ mậu dịch ở các khu vực trên thế giới ảnh hưởng rất mạnh đến dòng chảy thương mại và kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chúng ta đã thực hiện nhất quán được các giải pháp linh hoạt để vừa tập trung kiểm soát tốt dịch bệnh nhưng đồng thời tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Việt Nam có lẽ là một trong những quốc gia rất hiếm trên thế giới mà chúng ta đã khôi phục tình trạng bình thường mới để phát triển kinh tế.
Chính vì vậy, các chỉ số phát triển kinh tế, trong đó bao gồm công nghiệp, thương mại nội địa và thương mại quốc tế đều đạt con số khả quan.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải xác định, các áp lực và thách thức sẽ tiếp tục trong những năm tiếp theo, đặc biệt là dịch bệnh COVID-19 vẫn luôn thường trực. Vì vậy, bài học và nhiệm vụ cao nhất của chúng ta trong thời gian tới là cần phòng chống dịch bệnh. Vì chỉ cần lơ là lập tức sẽ gây hậu quả rất lớn cho kinh tế và xã hội, kéo lùi lại sự phát triển của xã hội. Chúng ta không được chủ quan, phải luôn luôn bám sát thực tiễn để ứng phó kịp thời.
Đối với những nhiệm vụ trong năm 2021, khi Nghị quyết 01 của Chính phủ được ban hành, tất cả các Bộ, ngành cần quán triệt và coi đó là mục tiêu trọng tâm. Trong đó, có 3 nhóm nhiệm vụ mục tiêu ngành công thương cần phải tập trung thực hiện.
Thứ nhất, tiếp tục phát triển thị trường bao gồm cả thị trường nước ngoài và thị trường trong nước. Chúng ta cần phải thực hiện những chương trình hành động mà Chính phủ đã ban hành, từ tuyên truyền phổ biến pháp luật đến việc tái cơ cấu tổ chức lại các ngành hàng, thị trường dịch vụ nội địa…
Thứ hai, tổ chức thực thi pháp luật, hoàn thiện cơ sở pháp lý và các quy định về pháp luật. Nếu tổ chức tốt việc thực thi pháp luật thì sẽ khai thác rất hiệu quả các hiệp định thương mại tự do.
Ví dụ, Bộ NN&PTNT cùng Bộ Công Thương đã chủ động trong việc thực hiện EVFTA. Hàng loạt vấn đề liên quan đến tổ chức thực thi, khai thác thị trường châu Âu đã được hướng dẫn nhanh nhạy, nhờ đó, thương mại với EU đạt tốc độ tăng trưởng trong 3 tháng cuối năm cao nhất từ trước đến nay.
Dự kiến năm nay, Việt Nam xuất khẩu 281 tỷ USD, so với con số dự kiến 300 tỷ USD trong tình huống không có dịch bệnh. Nếu không xảy ra dịch bệnh, chúng ta có những điều kiện cơ sở rất thuận lợi để đạt được yêu cầu, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói.
|
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm. Ảnh VGP |
Bộ Công an đăng ký kéo giảm 5% số vụ phạm pháp hình sự
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm kiến nghị tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế. Thứ hai, công tác an ninh kinh tế cần được đẩy mạnh hơn. Chúng ta rất quan tâm đến phát triển kinh tế nhưng cũng phải trên nền tảng đảm bảo an ninh kinh tế. Bộ Chính trị đã có chỉ thị, Chính phủ cũng có kế hoạch cụ thể để phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện an ninh kinh tế.
Thứ ba cần tập trung phòng chống tội phạm, cụ thể cần làm giảm tội phạm hình sự. Trong năm 2020, số vụ phạm tội hình sự đã giảm 6,8% so với 2019, thực tế nhiều địa phương cả ngày không có vụ phạm pháp hình sự nào.
“Năm 2021 chúng tôi cũng đăng ký với Quốc hội và Chính phủ giảm thêm 5% số vụ phạm pháp hình sự. Đề nghị các ngành các cấp cùng vào cuộc. Lực lượng công an sẽ quản lý đối tượng, vũ khí, gần dân hơn để giải quyết từ cơ sở”, Bộ trưởng nói.
Thứ tư là quan tâm hơn nữa đến chăm lo đời sống cho người dân, nhất là vùng sâu vùng xa, xây dựng vành đai an ninh quốc phòng vững chắc ở những vùng chiến lược này.
Cuối cùng, COVID-19 năm tới diễn biến còn phức tạp nên cần tập trung quản lý và xử lý tốt vấn đề này. Hiện đã có 70 nghìn người Việt Nam ở nước ngoài về nước và theo tính toán, còn hàng trăm nghìn người có nhu cầu về nước, nhiều đối tượng nhập cảnh trái phép. Do đó, cần lên phương án đón bà con về nước an toàn cũng như bảo đảm an ninh an toàn cho xã hội.
|
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường. Ảnh: VGP |
Chưa năm nào vào cuộc mạnh mẽ như vậy
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường khẳng định, trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, chúng ta đã đạt được mục tiêu kép. Ngành nông nghiệp không chỉ có khó khăn do COVID-19 gây ra mà cả thiên tai dị thường, lũ chồng lũ, bão chồng bão, mưa lịch sử... Cùng với đó là các dịch bệnh như dịch tả lợn châu Phi, sâu keo mùa thu, châu chấu sa mạc…
Trong hoàn cảnh đó. Thủ tướng và các Phó Thủ tướng 31 lần làm việc với ngành nông nghiệp. “Tôi khẳng định chưa có năm nào 63 tỉnh thành phố vào cuộc khu vực nông nghiệp mạnh mẽ như năm nay. Chính vì vậy, việc huy động tổng nguồn lực đã đạt được kết quả khi 58 tỉnh thành phố đã có bước bứt phá cao về nông nghiệp. Cụ thể như tỉnh Bình Phước tăng 46%, Bắc Giang 70%, Hưng Yên 70%, Hà Nội cũng trên 40%. Đã có sự biến nguy thành cơ với sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và Chính phủ”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh.
Việc phát triển thị trường cũng thành công với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các tỉnh cũng nỗ lực khai mở các thị trường mới. Gần đây nhất, ngày 22/12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng điện đàm với Tổng thống Hoa Kỳ nhằm xử lý nhiều vấn đề, trong đó có xuất khẩu nông sản. Chính vì thế năm nay xuất khẩu ngành nông nghiệp đạt hơn 41 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm ngoái.
Cùng với đó nhiều chỉ tiêu khác về nông thôn mới cũng đạt và vượt chỉ tiêu, tái cơ cấu nông nghiệp đã bắt đầu có tác động tích cực tới nhiều địa phương, điển hình nhất hiện nay là có đến một nửa lượng sản phẩm OCOP là sản phẩm của các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Năm 2021, khó khăn vẫn tiếp tục từ dịch bệnh, thiên tai, thị trường… nhưng ngành sẽ quyết tâm hơn nữa để khai thác tốt nhất, phát triển khu vực thị trường tiềm năng cuả nông nghiệp. Hiện Bộ NN&PTNT cũng đã xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết 01 và ngay tháng 2/2021 sẽ tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu nông nghiệp và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
Chuyển nguy thành cơ
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng, trước đây, ngành Tài nguyên và Môi trường thường được nhắc đến với những khó khăn, tồn tại. Nhưng cùng với những thành tựu chung của đất nước, ngành đã chuyển đổi thành công, biến nguy thành cơ, từ bị động thành chủ động.
|
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Ngành đã liên tục lắng nghe ý kiến các địa phương, trình Chính phủ ban hành 5 nghị định liên quan tới lĩnh vực đất đai, giải quyết rất nhiều nội dung mà nhiều địa phương đã nêu tại Hội nghị, đặc biệt là liên quan tới việc chuẩn bị đất đai cho các dự án đầu tư. “Vấn đề này khẳng định sẽ được giải quyết, nếu có vấn đề gì chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng”, Bộ trưởng nói.
Ngành đã chuyển hơn 230.000 ha đất sang mục đích phi nông nghiệp, phục vụ các dự án phát triển kinh tế. Khai thác khoáng sản tài nguyên khác vượt dự thu. Dự toán thu từ đất công sản vượt hơn 150%.
Quan trọng hơn, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Sắp tới, có thể chuyển 25% lượng rác thải sinh hoạt hằng ngày thành năng lượng với việc phát triển kinh tế tuần hoàn. Bộ trưởng cũng mong muốn các địa phương cụ thể hóa bằng các hành động để thực hiện tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững.
Bộ cũng sẽ phối hợp với các bộ ngành, địa phương để xây dựng các quy hoạch có chất lượng, đặc biệt là vấn đề phòng chống thiên tai.
Về biến đổi khí hậu, Nghị quyết 120 của Chính phủ phát triển bền vững ĐBSCL là hết sức quan trọng và các vùng khác như Tây Bắc, Tây Nguyên… cũng cần có những văn bản như vậy.
|
Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Thu ngân sách tăng cao hơn 150.000 tỷ đồng so với đánh giá trước đó
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, mặc dù trải qua nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2020 nhưng kết quả kinh tế - xã hội, thu ngân sách khá toàn diện và tích cực.
Kết quả thu cân đối ngân sách nhà nước đến hết 28/12/2020 đạt 1 triệu 426 nghìn tỷ đồng, bằng 94,32% dự toán, cao hơn hơn 101,4 nghìn tỷ đồng so với con số đã báo cáo Quốc hội, vẫn đang chỉ đạo các cơ quan thuế, hải quan, kho bạc phối hợp với các cấp các ngành đôn đốc các khoản thu trên tinh thần thu đúng, đủ, kịp thời theo quy định và tuyệt đối không động viên các doanh nghiệp nộp trước các khoản chưa đến hạn.
Ước thu ngân sách cả năm đạt 1 triệu 472 nghìn tỷ đồng, bằng 98,3% dự toán, cao hơn 148-150 nghìn tỷ đồng so với con số đánh giá tháng 8, tháng 9 để báo cáo Quốc hội, trong đó thu nội địa trên 98%, thu dầu thô 97,7%...
Thu cân đối ngân sách địa phương ước vượt trên 40 nghìn tỷ đồng, bằng 106% dự toán, đến nay có 56/63 địa phương thu nội địa vượt dự toán được giao, các tỉnh trọng điểm có Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh… đánh giá vượt dự toán, một số địa phương chưa hoàn thành dự toán như: TPHCM, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng…
Thu cân đối ngân sách Trung ương ước đạt 776 nghìn tỷ đồng, đạt 88,4% dự toán, cao hơn 51 nghìn tỷ đồng so với con số báo cáo Quốc hội.
Trong điều kiện thu ngân sách khó khăn, vẫn bảo đảm nguồn thực hiện các khoản chi quan trọng theo dự toán, đặc biệt là chi đầu tư phát triển, đồng thời bổ sung chiphòng chống dịch, hỗ trợ người lao động bị giảm sâu vào thu nhập, chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân, các cơ quan nhà nước thực hiện tiết kiệm 70% kinh phí hội nghị, hội thảo, công tác phí trong và ngoài nước và tiết kiệm 10% chi thường xuyên. Giải ngân chi đầu tư phát triển có bước tiến bộ lớn, ước đến 31/12 đạt 82,8%.
Năm 2021, ngành Tài chính khẩn trương rà soát, báo cáo Chính phủ và các cấp có thẩm quyền các giải pháp ưu đãi, miễn giảm, giãn các khoản thuế, lệ phí nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; thu hút các nguồn dịch chuyển vốn đầu tư phù hợp với mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn kế hoạch..., tuy nhiên cũng cần căn cứ vào thực tiễn.
Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế đề nghị các ngành, cấp ủy chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo công tác quản lý ngân sách bảo đảm thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thu; chống thất thu, chuyển giá, trốn lậu thuế, buôn lậu gian lận thương mại, xuất xứ, giao chỉ tiêu giảm nợ đọng thuế, trốn thuế 5%, phấn đấu tăng thu ngân sách tối thiểu 3% so với dự toán ngân sách được giao…
Chống COVID-19 vẫn là ưu tiên hàng đầu
Mở đầu phiên làm việc sáng 29/12, sau khi Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Lê Tiến Trường phát biểu, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã tham luận, nhấn mạnh kết quả năm 2020 cho thấy các bài học kinh nghiệm trong chỉ đạo, điều hành.
|
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Thứ nhất, phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân và doanh nghiệp.
Công tác phòng chống dịch và phục hồi kinh tế nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng, Quốc hội, các quyết sách của Chính phủ rất kịp thời, chính xác, đặc biệt là vai trò của Thủ tướng Chính phủ. Thành tựu đạt được là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, củng cố niềm tin là chúng ta có thể làm được nhiều điều kỳ diệu khác.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ trương đúng đắn này được triển khai suốt thời gian qua và cần được thực hiện mạnh mẽ thời gian tới trong bối cảnh rất khó đoán định. Cùng với đó, tận dụng các cơ hội để tái cơ cấu nền kinh tế, thu hút FDI… để gia tăng khả năng chống chịu, sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ ba, nhận định, đánh giá đúng tình hình về khó khăn, thách thức và cơ hội, xây dựng giải pháp, đối sách phù hợp.
Thứ tư, thường xuyên đổi mới sáng tạo, nâng cao bản lĩnh trí tuệ trong công tác tham mưu...
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm năm 2021. Theo đó, phòng chống COVID-19 vẫn là ưu tiên hàng đầu, quan trọng nhất để thực hiện các nhiệm vụ, việc mở cửa trở lại phải xem xét rất thận trọng.
Cùng với đó, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, các đột phá chiến lược, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp, các sản phẩm. Đẩy nhanh chuyển đổi số. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao. Khẩn trương lập Đề án trung tâm tài chính quốc tế tại Đà Nẵng và TPHCM. Tập trung hoàn thiện nhanh khung khổ pháp lý và triển khai các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số. Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia.
Tập trung đẩy nhanh công tác lập quy hoạch.
Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành giá, nhất là giá cả hàng hóa phải thận trọng, phù hợp.
Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp để các doanh nghiệp vươn ra quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bộ trưởng cũng giải đáp các vấn đề được các địa phương đặt ra như liên quan tới các khu công nghiệp, thu hút đầu tư, quy hoạch, đầu tư công…
Lắng nghe từng hơi thở của doanh nghiệp
Ông Lê Tiến Trường – Chủ tịch HHĐQT Tập đoàn Dệt May Việt Nam bày tỏ cảm ơn sự chỉ đạo chính xác, quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ ngành, địa phương trong phòng chống dịch COVID – 19, nhờ đó, ngành Dệt may Việt Nam là nước duy nhất trong top 5 các nước xuất khẩu lớn nhất thế giới không bị cách ly và không bị dừng sản xuất. Đây có thể nói là nguyên nhân quan trọng nhất giúp cho Dệt may Việt Nam có mức giảm thấp nhất trong xuất khẩu, xét về mặt hàng quần áo.
Ông Trường cho biết, theo số liệu cập nhật mới nhất trong ngành Dệt may thì lợi nhuận thời trang toàn cầu giảm 93%, hơn 10 chuỗi cung ứng và thương hiệu thời trang lớn phá sản, khoảng 200 nghìn lao động trong chuỗi cung ứng thời trang của Mỹ đã mất việc làm.
Trong khi đó, nhờ không bị giản đoạn sản xuất nên thị phần hàng dệt may Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, lần đầu đạt tăng trưởng 20% tại thị trường Mỹ. Trong đó, nhiều tháng đứng đầu về thị phần. Các hiệp định thương mại, FTA không bù đắp được hoàn toàn sự sụt giảm của thị trường nhưng cũng đã góp phần đỡ thiếu hụt về mặt đơn hàng.
Hàng Dệt may Việt Nam đã có sự chuẩn bị từ đầu năm khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn, có nhiều giải pháp tổng hợp và dịch chuyển nguồn cung. Ngay từ đầu tháng 2, nhiều doanh nghiệp đã sản xuất các sản phẩm phòng dịch và bình ổn giá trong nước, các mặt hàng này đã thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng đảm bảo việc làm cho nhiều người lao động.
Ngành cũng xác định hai tài sản quan trọng nhất cần bảo vệ đó là lực lượng lao động lành nghề và vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu với mục tiêu đáp ứng ngay thị trường khi phục hồi trở lại. Chính quan điểm này đã giúp ngành dệt may đảm bảo cơ bản được việc làm cho người lao động với trên 4 triệu người dù việc ít đi, thu nhập thấp đi nhưng vẫn trên mức trung bình, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Ngành Dệt may năm 2020 kim ngạch xuất khẩu giảm hơn 10%, lợi nhuận giảm 15% nhưng lương của người lao động chỉ giảm 4,5%, đạt trung bình trên 8,1 triệu đồng/người/ tháng, do giảm giờ làm trên 12%, lương thực tế theo giờ tăng trên 8%.
Các doanh nghiệp nhận được sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng gặp riêng ngành Dệt may 2 lần, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã trực tiếp chỉ đạo ngành Dệt may các sản phẩm phòng dịch, các Bộ trưởng đều có cuộc làm việc riêng để giải quyết các khó khăn của ngành trong những tháng gay gắt nhất tình hình dịch.
Năm 2021 vẫn đầy khó khăn và bất định. Xu thế giảm giá, hàng hoá đơn giản sẽ thay thế hàng thời trang, dẫn tới năng lực sản xuất sẵn có sẽ trở nên dư thừa và xuất hiện nhiều yêu cầu các năng lực sản xuất mới.
Ngành dệt may đặt kế hoạch bằng 2020, xuất khẩu cao nhất 39 tỷ USD. Ông Lê Tiến Trường cũng nêu một số kiến nghị về tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lãi suất vay dài hạn. Bộ Công Thương hướng dẫn cụ thể hơn về các FTA…
Sau phát biểu của ông Lê Tiến Trường, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết lãnh đạo Chính phủ luôn lắng nghe từng hơi thở của các doanh nghiệp trong phát triển đất nước.
QUYẾT TÂM CÙNG CHÍNH PHỦ ĐẠT 'MỤC TIÊU KÉP'
Phát biểu ý kiến tại Hội nghị, lãnh đạo các địa phương đều đồng tình, thống nhất cao với nội dung các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2020 và những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
|
Chủ tịch UBND TP Hà Nội phát biểu tại điểm cầu Hà Nội. |
Ông Nguyễn Thanh Ngọc, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cho biết, tỉnh đã bố trí 123 chốt trên dọc tuyến biên giới với hơn 600 cán bộ chiến sĩ thuộc các lực lượng quân sự, biên phòng, công an thường xuyên túc trực tuần tra, kiểm soát biên giới 24/24. Từ khi xảy ra dịch bệnh đến nay, tỉnh đã cách ly trên 10.000 người và hàng ngày hiện nay vẫn tiếp tục duy trì thực hiện cách ly bình quân 20-30 người nhập cảnh từ Campuchia. Hiện tại, tại các khu cách ly của tỉnh vẫn đang cách ly tập trung khoảng 500 người nhập cảnh.
Tỉnh cũng đồng thời phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế biên giới, nhập cảnh trái phép. Tính từ tháng 3/2020 đến nay, các lực lượng chức năng của tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 199 vụ với 375 đối tượng vi phạm quy chế biên giới, nhập cảnh trái phép, đã xử lý hành chính 176 vụ với 316 đối tượng; xử lý hình sự 11 vụ với 32 đối tượng và tiến hành trục xuất 41 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép… Tỉnh đã phát hiện và điều trị khỏi 7 trường hợp nhập cảnh mắc COVID-19.
Liên quan đến bệnh nhân BN1440, đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa làm rõ được chính xác tình hình di chuyển của bệnh nhân này, do đối tượng khai báo không trung thực và thiếu nhất quán. Để chủ động phòng chống dịch lây lan trong cộng đồng, tỉnh đã kích hoạt toàn bộ hệ thống phòng chống dịch ở mức cao nhất, đồng thời chỉ đạo rà soát và tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát biên giới nghiêm ngặt nhất.
Tỉnh cũng đưa ra chủ trương khen thưởng nóng bằng vật chất đối với tất cả người dân phát hiện và tố giác người nhập cảnh trái phép. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các địa phương có liên quan để tiếp tục làm rõ hành trình di chuyển của BN1440 để truy vết, ngăn vùng chính xác để phòng ngừa, không để dịch bệnh lây lan ra cộng đồng.
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Tường Văn cho biết, năm 2020, tỉnh đã quyết tâm thúc đẩy đầu tư công với phương châm lấy đầu tư công để dẫn dắt môi trường đầu tư. Cùng với đó, tỉnh tập trung gỡ mọi khó khăn cho doanh nghiệp, vcó những dự án đầu tư thời gian cấp phép chỉ 22h sau đầy đủ khi nhà đầu tư nộp hồ sơ. Bí thư các cấp trực tiếp là trưởng ban giải phóng mặt bằng để gỡ vướng tại địa phường kịp thời, như dự án đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái, chỉ sau 15 ngày vận động, người dân đã bàn giao mặt bằng, hoàn toàn không hề có cưỡng chế hay khiếu nại.
Năm 2021, tỉnh xác định tiếp tục giữ là địa phương an toàn và phát triển trong tình hình mới, phấn đấu tăng trưởng ít nhất 10%.
Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận Trần Quốc Nam nhấn mạnh, năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm đầu triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, triển khai thực hiện Quy hoạch tỉnh, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục bám sát và triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương mới của Chính phủ, phát huy những thành tựu quan trọng đạt được trong nhiệm kỳ qua, cùng với tiếp tục khai thác và phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế; các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ Tỉnh và những đột phá trong lĩnh vực kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; thực hiện phương châm hành động của năm 2021 của Chính phủ là "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển" và phương châm hành động năm 2021 của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận là "Đoàn kết - Sáng tạo - Kỷ cương - Phát triển – Tăng tốc - Hiệu quả”.
Tỉnh sẽ đổi mới trong tư duy và hành động quyết liệt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chỉ đạo điều hành, nêu cao tinh thần trách nhiệm, triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, trước hết là tổ chức quán triệt, triển khai kịp thời các Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV, Quy hoạch 10 năm và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 của Tỉnh.
Tạo cơ chế thu hút nguồn lực thông qua công tác quản lý và huy động tốt nhất nguồn lực đất đai, nguồn lực các thành phần kinh tế để khai thác hiệu quả các nhóm ngành đột phá, trụ cột; cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và của cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ, hội họp; đẩy nhanh xây dựng chính quyền điện tử.
Triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ trong thực hiện Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết phát triển với các tỉnh, thành phố trong nước và nước ngoài.
Ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ cho biết, Cần Thơ thống nhất cao với nhận định, đánh giá tại các Báo cáo của Chính phủ, đặc biệt trong công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, hiệu quả trong công tác phòng chống COVID-19; hỗ trợ doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn bằng các chính sách và gói hỗ trợ; các chính sách kích cầu trong kinh tế, trong chỉ đạo điều hành giải ngân vốn xây dựng cơ bản; trong phòng chống, khắc phục thiên tai, hạn mặn ở ĐBSCL; lũ lụt, bão ở miền Trung; rét hại ở miền Bắc.
Cũng theo lãnh đạo Thành phố Cần Thơ, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, vẫn còn một số vấn đề cần nghiên cứu và có giải pháp kịp thời tháo gỡ như việc kết nối giao thông của các tỉnh trong vùng vẫn còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền còn lớn; vẫn còn bất cập, tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết chưa được khắc phục triệt để…
Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ kiến nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện một số chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp như ưu đãi về thuế, giãn thuế..., sớm ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển Thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xem xét, chấp thuận phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố Cần Thơ làm cơ sở kêu gọi đầu tư, đẩy nhanh phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến...
Theo Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng Lê Trung Chinh, năm 2020, Thành phố Đà Nẵng đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã quyết liệt, đồng lòng trong công tác chỉ đạo, điều hành và triển khai hiệu quả một số công việc quan trọng, trong đó, thành phố đã đã cơ bản khống chế được dịch bệnh và ngăn chặn sự lây lan trong cộng đồng; thu hút đầu tư trong nước ngoài KCN gấp khoảng 2 lần lần về vốn so với cùng kỳ 2019…
Năm 2021, thành phố sẽ tiếp tục thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kép “vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa khôi phục, phát triển kinh tế”; kịp thời thực hiện các giải pháp phát triển nguồn thu, phấn đấu thu ngân sách đạt kết quả cao nhất; tập trung chỉ đạo xử lý các “điểm nghẽn” trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản, công tác giải tỏa, đền bù, bàn giao mặt bằng triển khai dự án, nhất là các công trình trọng điểm, động lực trên các lĩnh vực giao thông, hạ tầng khu công nghệ cao, khu công nghiệp, cấp thoát nước, môi trường, an sinh xã hội; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu hoàn thành giải ngân vốn xây dựng cơ bản năm 2021 theo kế hoạch đề ra…
Để tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố trong việc triển khai nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành trung ương xem xét, giải quyết một số kiến nghị, đề xuất của địa phương. Trong đó, Chính phủ quan tâm xem xét, sớm ban hành Nghị định quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng, Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị định số 144/2016/NĐ-CP quy định một số cơ chế đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng, Quyết định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Điều 8 Nghị quyết 119/2020/QH14 về điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị; phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đề nghị các bộ ngành đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án giao thông lớn, có sức lan tỏa, kết nối tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền Trung - Tây Nguyên...
Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa khẳng định trong bối cảnh hết sức khó khăn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân. Với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020 đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng giúp kinh tế - xã hội đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong nước và ngoài nước, đặc biệt là những cơ chế, chính sách cho phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ, đáng chú ý, tổng số vốn đầu tư cho ĐBSCL so với cả nước tăng từ 12,2% (giai đoạn 2011-2015) lên 16,53% (giai đoạn 2016 - 2020).
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016 - 2020), Đồng Tháp cơ bản đạt mục tiêu đã đề ra, nền kinh tế tỉnh tiếp tục có bước phát triển toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân 05 năm ước đạt 6,44%/năm, thu nhập bình quân đầu người nâng lên đáng kể, đến cuối năm 2020 ước đạt trên 47 triệu đồng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn 1,21 lần. An sinh xã hội được chú trọng, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển. Diện mạo đô thị và nông thôn ngày càng khang trang, văn minh, sạch đẹp, nâng cao hình ảnh địa phương, con người Đồng Tháp. Phương châm “đồng hành cùng doanh nghiệp” được khẳng định bằng những hành động thiết thực. Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), Đồng Tháp đề ra 19 chỉ tiêu phấn đấu; trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế phấn đấu đạt 7,5%/năm và năm 2021 đạt 7,0%.
Dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đồng Tháp vẫn kiên định mục tiêu không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng bằng mọi giá mà tập trung phát triển kinh tế để nâng cao thu nhập cho người dân, đồng hành cùng doanh nghiệp, giải quyết tốt các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, giảm nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục… từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Do đó, tỉnh Đồng Tháp rất mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ sát sao của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung ương để giúp tỉnh thực hiện mục tiêu này.
Theo đại diện tỉnh Kon Tum, dưới sự lãnh đạo, điều hành linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đại dịch COVID-19 đã được ngăn chặn và kiểm soát kịp thời; công tác ứng phó với nắng nóng, hạn hán và xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ, Tây Nguyên và tìm kiếm, cứu nạn, ứng phó, khắc phục hậu quả bão, mưa lũ tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên được thực hiện khẩn trương, kịp thời đã giúp Nhân dân sớm ổn định cuộc sống sau thiên tai.
Để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2021 cũng như giai đoạn đến năm 2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra, Tỉnh Kon Tum đề xuất, kiến nghị một số cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo động lực thúc đẩy phát triển tỉnh Kon Tum nói riêng và liên vùng Tây Nguyên – Miền Trung nói chung trong thời gian tới.
Với tiềm năng, lợi thế và xu hướng phát triển của ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, tỉnh xác định nông nghiệp công nghệ cao gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ là 01 trong 3 lĩnh vực đột phát phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới; đồng thời, đặt mục tiêu đến năm 2025 phát triển thêm 15.000 ha rừng, nâng độ che phủ rừng đạt tối thiểu 64%.
Sâm Ngọc Linh và dược liệu nói chung là tiềm năng lớn của quốc gia, tuy nhiên việc mở rộng diện tích đang gặp nhiều khó khăn do vướng quy định, tỉnh đề nghị sớm có giải pháp tháo gỡ cho các địa phương thực hiện thí điểm phát triển Sâm Ngọc Linh và dược liệu khác dưới tán rừng đặc dụng.
Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng Nguyễn Văn Tùng cho biết, trong năm 2020, TP. Hải Phòng đã thực hiện thắng lợi nhiệm kép vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân.
Thành phố đã kiểm soát, khống chế được dịch bệnh, không có ca mắc COVID-19 ngoài cộng đồng. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế thành phố vẫn duy trì ở mức cao . Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu như chỉ số sản xuất công nghiệp, thu nội địa, kim ngạch xuất khẩu, sản lượng hàng qua cảng, tổng vốn đầu tư phát triển tiếp tục có sự tăng trưởng so với cùng kỳ. Kịp thời triển khai gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại tiếp tục được bảo đảm… Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP tăng 11,22% so với năm 2019, bình quân 5 năm tăng gần 14%/năm, vượt kế hoạch đề ra; tổng thu ngân sách năm 2020 đạt gần 86.000 tỷ đồng, tỷ lệ hộ nghèo còn 0,22%...
Để giúp cho Hải Phòng hoàn thành được nhiệm vụ, phát huy mạnh mẽ vai trò là cực tăng trưởng, là động lực phát triển kinh tế xã hội cho cả vùng và cả nước như Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị đã định hướng, thành phố Hải Phòng đề nghị Chính phủ phân cấp cho các địa phương một số nội dung.
Về triển khai thực hiện Nghị quyết số 45 của Bộ Chính trị về xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ đã ban hành chương trình hành động số 108, đề nghị Chính phủ điều chỉnh Nghị quyết 89 về quy định một số chính sách tài chính, ngân sách đặc thù Hải Phòng để thành phố phát huy tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội; đề nghị Bộ Xây dựng và Chính phủ sớm phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050…
Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế Phan Ngọc Thọ cho rằng, để đạt được mục tiêu đề ra, ngoại trừ yếu tố kiểm soát tốt dịch bệnh, Chính phủ cũng đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể, tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, khai thác dư địa của các động lực tăng trưởng từng ngành, địa phương.
“Bài học về sức mạnh kỷ luật, sự đồng thuận, chung sức đồng lòng trong thời điểm khó khăn nhất của đất nước là bài học quý báu cho chúng ta trong quá trình phục hồi và phát triển đất nước sau đại dịch”, ông Phan Ngọc Thọ phát biểu.
Chưa gượng dậy sau đại dịch COVID lần 2, các tỉnh miền Trung nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng phải đương đầu, gánh chịu tác động nặng nề do bão, lũ, lụt trong tháng 9, tháng 10. Trong những thời điểm khó khăn đấy, nhân dân tỉnh nhà luôn nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ, động viên kịp thời của lãnh đạo Đảng, Chính phủ, sự vào cuộc đầy trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, của hệ thống chính trị, những tấm lòng nhân ái chia sẻ vật chất, tinh thần của bà con cả nước đã góp phần hạn chế, khắc phục hậu quả bão, lũ gây ra, làm vơi đi những mất mát, đau thương của người miền Trung gánh chịu trong bão lụt.
Năm 2021 là năm khởi động đầu nhiệm kỳ với nhiều khó khăn, cần tập trung nguồn lực cho đầu tư khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh, đòi hỏi các cấp, các ngành phải năng động, sáng tạo và sẵn sàng với "trạng thái mới" trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện để phấn đấu đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo, điều hành.
Để đạt mục tiêu đề ra trong 2021 của quốc gia cũng như của địa phương, Thừa Thiên Huế cho rằng, thời điểm hiện nay phục hồi, đón đầu cơ hội nền kinh tế là nhiệm vụ cấp bách của đất nước. Đây là cơ hội để chúng ta đánh giá sự thích nghi, chủ động của nền kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi và quy mô toàn cầu.
Ông Phan Ngọc Thọ đề nghị cần tiếp tục có lộ trình chuyển đổi, hình thành chuỗi sản xuất tin cậy, đa dạng, chủ động, tạo nền tảng cho phát triển nền kinh tế, có năng lực phản ứng nhanh, linh hoạt, thích ứng với biến động của nền kinh tế. Đây là thời điểm cho Việt Nam tận dụng từ việc điều chỉnh, sắp xếp lại cục diện kinh tế, thương mại toàn cầu do dịch bệnh gây nên.
Tiếp tục thực hiện cải cách thể chế, kịp thời giải quyết, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong các lĩnh vực kinh tế, tập trung chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhằm phát huy hiệu quả vận hành Chính phủ điện tử, góp phần quan trọng trong thực hiện cải cách hành chính, hiện thực hóa lộ trình giảm giấy tờ, giảm thời gian, giảm chi phí trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính…
Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh cho biết thành phố đã triển khai một cách nghiêm túc và chủ động, bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, về cơ bản Thành phố đã đạt được mục tiêu tổng quát, mục tiêu kép với những kết quả quan trọng, toàn diện trong đó nhiều chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Một số dấu ấn Thành phố như: Đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng Hà Nội, được đánh giá là thực chất, trọn vẹn và tạo nhiều dấu ấn tốt đẹp; hiệu quả mục tiêu kép, TP đã kiểm soát, đẩy lùi được dịch bệnh trong cả 3 đợt; có giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, nhiều hoạt động kết nối với các địa phương cung cầu hàng hóa, tổng sản phẩm trên địa bàn ước tăng 3,98%, quy mô nền kinh tế trên 44 tỷ USD, thu ngân sách ước thực hiện khoảng 280 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019…
Bên cạnh đó, Hà Nội tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của Thủ đô, thúc đẩy nhiều công trình hạ tầng giao thông, xử lý nhiều vấn đề dân sinh bức xúc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...
Năm 2021, thành phố Hà Nội thực hiện năm chủ đề: “Kỷ cương, trách nhiệm, hành động, sáng tạo, phát triển” và xây dựng 23 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội, trong đó, phấn đấu GRDP tăng khoảng 7,5%. Ngay từ đầu tháng 1/2021, thành phố Hà Nội sẽ ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ.
Ban Thường vụ Thành ủy Hà nội đã có 3 nội dung báo cáo về Bộ Chính trị: xung quanh định hướng điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Hà Nội dự kiến tháng 12/2021 để báo cáo Bộ Chính trị; sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Thủ đô dự kiến tháng 12/2021; báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11 về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô giai đoạn 10 năm qua để chuẩn bị cho 10 năm tiếp theo.
Hà Nội đề nghị Chính phủ báo cáo với Quốc hội về việc triển khai kết hoạch đầu tư công trung hạn, theo Điều 89, Luật Đầu tư công, hiện nay có bất cập là dự án cho 2 kỳ kế hoạch đầu tư liên tiếp phải bảo đảm tổng số giá trị, tổng mức đầu tư của chương trình dự án được thực hiện kế hoạch đầu tư công của giai đoạn sau không vượt quá 20% giai đoạn trước; về Quy hoạch Hà Nội 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn 2045 liên quan đến bố trí vốn, thẩm định dự toán; kiến nghị Bộ Nội vụ trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn Nghị quyết 97 của Quốc hội thí điểm mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn TP.Hà Nội...
Ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch UBND TPHCM cho biết, Thành phố xác định chủ đề năm 2021 là: “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”, với mục tiêu tổng quát là tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, đó là tập trung kiểm soát tốt lây nhiễm COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Thành phố thông minh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng chính quyền đô thị; chú trọng phát triển văn hóa, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình hạnh phúc; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Để thực hiện tốt phương châm hành động năm 2021 Chính phủ đề ra là “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển”, Thành phố xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 với 20 chỉ tiêu và 9 nội dung trọng tâm là:
(1) Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả chủ đề năm 2021 “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”. Triển khai Kế hoạch thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM theo Nghị quyết số 131 và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ đảm bảo đúng tiến độ. Triển khai sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập Thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM, trong đó nghiên cứu các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển Thành phố Thủ Đức trình các cơ quan Trung ương thông qua. Dự kiến ngày 31/12/2020, TP sẽ tổ chức công bố Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Thành phố Thủ Đức.
(2) Tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, tập trung kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực.
(3) Đảm bảo tiến độ thực hiện 51 chương trình nội dung, đề án thuộc 3 chương trình đột phá về đổi mới phát triển hạ tầng, phát triển nhân lực và văn hóa, chương trình trọng điểm về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo và phát triển sản phẩm chủ lực của TP.
(4) Đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số tận dụng thời cơ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
(5) Đẩy mạnh thiết kế đô thị phục vụ quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
(6) Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.
(7) Tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
(8) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế.
(9) Giữ vững ổn định an ninh chính trị, quốc phòng an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đảm bảo tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị ....
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2021, tại Hội nghị hôm nay, Thành phố kiến nghị Chính phủ quan tâm, sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố theo Nghị quyết số 131 của Quốc hội trước ngày 1/1/2021. Hiện Thành phố rất chủ động và khẩn trương phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hoàn chỉnh dự thảo để trình Chính phủ.
Để tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 54 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương sớm có hướng dẫn về Phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa để Thành phố kịp triển khai công tác cổ phần hóa theo kế hoạch đề ra và đẩy nhanh tiến độ kê khai, phê duyệt phương án và thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước của các Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước trên địa bàn TP để TP có thêm nguồn lực đầu tư phát triển.
NĂM 2020 THÀNH CÔNG NHẤT TRONG 5 NĂM QUA
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng lần thứ 4 liên tiếp tham dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Hội nghị lần này tổng kết năm 2020 và bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
Hội nghị diễn ra vào cuối năm 2020, năm cận kề Đại hội XIII của Đảng, năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm và chiến lược phát triển 10 năm. Các đồng chí đã chuẩn bị công phu, chu đáo, nghiêm túc, Chính phủ báo cáo toàn diện, đầy đủ, rõ ràng, phát biểu của các địa phương cụ thể, phong phú, sinh động.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước phát biểu thêm một số vấn đề có tính chất gợi mở, tổng quát để các đồng chí suy nghĩ, trao đổi thêm.
Năm 2020 có nhiều khó khăn, thách thức, bất ngờ lớn, tác động nhiều mặt tới nước ta và toàn thế giới. Kinh tế toàn cầu suy thoái nặng nề, tăng trưởng âm 4%. Trong nước, khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng trong bối cảnh đặc biệt đó, chúng ta vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và nhiều dấu ấn nổi bật.
|
Ảnh: VGP |
Cụ thể, ứng phó nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh. Củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. “Trong những thời khắc đầy khó khăn thách thức, tính ưu việt của chế độ, các truyền thống tốt đẹp, ý chí của dân tộc ta được phát huy và đưa lên tầm cao mới. Các giải pháp đưa ra phù hợp tình hình và thực lực đất nước, chấp nhận hi sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân, chống dịch như chống giặc…
Việt Nam tuy còn khó khăn về kinh tế nhưng là một hình mẫu về phòng chống dịch bệnh, với chi phí thấp nhất, có trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế. Đại sứ EU đã nói, ở lại Việt Nam thời đại dịch là một may mắn xa xỉ.
Cùng với đó, nỗ lực phục hồi duy trì tăng trưởng cao nhất có thể, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới, với nhiều chủ trương chính sách ban hành kịp thời và thực hiện tốt.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc tới hàng loạt kết quả nổi bật như tăng trưởng GDP, xuất khẩu, nợ công, giải ngân vốn đầu tư công… Cùng với đó là những kết quả toàn diện về bảo đảm an sinh xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh. Trong bối cảnh gồng mình chống thiên tai dịch bệnh, chúng ta vẫn tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp và đang chuẩn bị tổ chức Đại hội XIII theo đúng kế hoạch đề ra, chặt chẽ, kỹ lưỡng, bài bản, đúng quy định, nhiều đổi mới.
“Dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương năm ngoái, tôi có chúc rằng các đồng chí phấn đấu làm sao để năm 2020 phải hơn 2019. Đến nay, dù còn những hạn chế, có chỉ tiêu chưa làm được, nhưng như trong báo cáo của Chính phủ, năm 2020 đã thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh.
|
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. - Ảnh: VGP |
Chỉ đạo các giải pháp, nhiệm vụ lớn trong năm 2021 và thời gian tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn vì mục tiêu đặt ra trong năm 2021 là rất cao trong bối cảnh chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới thời gian tới sẽ diễn biến rất phức tạp, khó đoán định, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về nhiều mặt dưới tác động của đại dịch COVID-19.
Chúc năm 2021 phải đạt nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm 2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc lại yêu cầu tuyệt nhiên không được say sưa, tự mãn, vì trước mắt khó khăn thách thức rất nhiều, công việc nặng nề đang chờ đón. Đặc biệt, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lưu ý đội ngũ cán bộ cả nước, rường cột của nước nhà, công bộ của dân, phải luôn tự soi tự sửa để không mắc vào những cám dỗ vật chất, để không xảy ra những điều không ai mong muốn.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng, sau Hội nghị này, với khí thế mới, niềm tin mới, Chính phủ, các địa phương tiếp tục đoàn kết, năng động sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ năm 2021 và cả nhiệm kỳ, góp phần xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong đợi.
Với tinh thần chung là phải chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn các năm trước và nhiệm kỳ trước, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên 4 nhóm phương hướng, nhiệm vụ lớn.
Thứ nhất, tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn với những kết quả, thành tích đã đạt được vì mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra cho năm 2021 và nhiệm kỳ tới là rất cao, trong khi đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, ở mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Sản xuất kinh doanh bị suy giảm; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí phải đóng cửa, tạm dừng hoạt động. Việc làm, thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng lớn. Việc bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Hệ thống tài chính - ngân hàng; công tác bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội đứng trước nhiều rủi ro, thách thức. Việc triển khai thực hiện một số chính sách, biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ sản xuất kinh doanh chưa thực sự hiệu quả, chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra…
Thứ hai, cần quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội XIII, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và hiệu quả hơn công cuộc đổi mới. Xác định rõ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong giai đoạn tới là đẩy mạnh đổi mới, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam; thu hút, trọng dụng nhân tài; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Thứ ba là xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt kế hoạch hằng năm, cũng như Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 gắn với Chiến lược 10 năm về phát triển kinh tế - xã hội theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong quá trình này, cần tập trung ưu tiên nguồn lực để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm là: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các vùng và khu vực; phát triển bền vững kinh tế biển, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững.
Đồng thời, luôn kiên định với mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy cao độ giá trị văn hóa, sức mạnh con người. Chú trọng đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, tạo sự chuyển biến tích cực hơn nữa trong việc quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai có hiệu quả các chính sách, biện pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thường xuyên quan tâm thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Thứ tư là tập trung ưu tiên đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến về chất trong việc tổ chức thực hiện ba đột phá chiến lược, bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới theo hướng: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt, trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục - đào tạo, gắn với cơ chế phát hiện, tuyển dụng, sử dụng đội ngũ nhân tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế số, xã hội số.
Phát biểu đáp từ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ cảm ơn những chỉ đạo rất sâu sắc, toàn diện của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Những nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là sự động viên, khích lệ to lớn và là định hướng xuyên suốt trong hoạt động của Chính phủ và chính quyền các cấp trong thời gian tới. Chính phủ, từng thành viên Chính phủ sẽ lĩnh hội, quán triệt và triển khai các nội dung chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực, đạt được những kết quả to lớn hơn trong thời gian tới.
|
Ảnh: VGP |
VIỆT NAM CÓ THỂ ĐI ĐẦU TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Như đã thành thông lệ quý báu, hôm nay chúng ta vui mừng đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đến tham dự Hội nghị và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng. Chính phủ cũng vui mừng đón đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các Bộ ngành trung ương, địa phương cùng tham dự Hội nghị quan trọng hôm nay.
Nhớ lại 5 năm trước, khi Chính phủ bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016 – 2020, nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Hôm nay, nhìn lại cả chặng đường đã đi, tôi vui mừng được chia sẻ rằng đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, mọi người dân được hưởng thành quả phát triển, biên cương, bờ cõi được giữ vững, niềm tin được củng cố, niềm tự hào với bè bạn năm châu được nhân lên. Trong nhiệm kỳ qua, chúng ta đã đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực, nhất là nước chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, AIPA 41, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng, đặc biệt là Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều.
Trong suốt hành trình 5 năm, Chính phủ đã nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, những góp ý thẳng thắn, cụ thể của các đại biểu Quốc hội, sự phối hợp tích cực, hiệu quả của các cơ quan tư pháp; sự ủng hộ của MTTQ các cấp trong huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Riêng năm 2020, dưới tác động của COVID-19, trong khi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới rơi vào suy thoái, Việt Nam chúng ta là quốc gia hiếm hoi duy trì được tăng trưởng dương. Dịch bệnh trong nước được kiểm soát vững chắc, giảm thiểu số người chết và những thiệt hại về kinh tế; an sinh xã hội được bảo đảm, văn hoá, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thông tin truyền thông đạt nhiều kết quả ấn tượng, công tác tuyên giáo, dân vận chính quyền phát huy được nhiều ảnh hưởng và sức lan tỏa trong cán bộ-công chức và nhân dân. Đến thời điểm này có thể khẳng định chúng ta đã đạt được "mục tiêu kép" trong phòng chống dịch COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Nhìn rộng hơn, chúng ta không chỉ thành công về phát triển kinh tế mà công tác xây dựng Đảng, phòng, chống tham nhũng cũng được Đảng, Nhà nước đẩy mạnh, qua đó thiết lập lại kỷ cương phép nước, đẩy lùi tiêu cực, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ các cấp, từng bước lành mạnh hóa môi trường kinh doanh và môi trường xã hội.
Như câu ngạn ngữ, thành công không chỉ được đo bằng những gì đạt được mà còn bởi những trở ngại đã vượt qua. Với những thành quả đặc biệt đó, năm 2020 có thể được xem là năm thành công nhất trong 5 năm nhiệm kỳ của chúng ta về ý chí và tinh thần vượt khó vươn lên. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tương lai đất nước, cơ đồ dân tộc không ngừng được củng cố và vun đắp. Nó cho thấy, những lúc khó khăn nhất, gai góc nhất là những dịp bản sắc của tinh thần dân tộc ta lại trỗi dây, đó chính là sự đoàn kết, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay."
Sự kiện hôm nay không chỉ tổng kết năm 2020 mà còn cả 4 năm trước đó của nhiệm kỳ. Phân tích rõ hơn một số vấn đề đặt ra của đất nước ta trong những năm tới một cách cô đọng nhất, Thủ tướng nêu rõ:
Trong 5 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã cùng nhau tạo ra hơn 1.200 tỷ đô-la giá trị GDP. Riêng năm 2020, dù trong muôn vàn khó khăn bởi COVID-19 và sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ Đại suy thoái 1929-1932, kinh tế nước ta vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương xấp xỉ gần 3%. Theo tính toán của IMF, quy mô kinh tế nước ta giờ đây đã đạt hơn 340 tỷ đô-la – đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, tương đương hoặc vượt qua một số nền kinh tế có trình độ phát triển cao trong khu vực, kể cả một số con hổ của Đông Á. Tạp chí Nhà Kinh tế của Anh xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của WB, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.
Chúng ta vui mừng nhận thấy tăng trưởng nay đã bao trùm hơn rất nhiều, không chỉ ở đô thị mà còn ở nông thôn, không chỉ ở đồng bằng mà còn miền núi, biên giới, hải đảo. Chúng ta cũng chứng kiến những con số tăng trưởng ấn tượng của nhiều địa phương mới nổi bên cạnh các địa phương truyền thống. Có thể nói, chính sự tăng trưởng bứt phá của các địa phương mới nổi là nhân tố truyền cảm hứng cho nhiều địa phương khác tự tin vượt lên chính mình.
Ở góc nhìn khác, tăng trưởng kinh tế nay đã không còn phụ thuộc nhiều vào riêng một thành phần kinh tế nào, dù là DNNN hay FDI, mà vai trò của kinh tế tư nhân đang từng bước được khẳng định là một động lực quan trọng của đất nước như tinh thần Nghị quyết 10 của Trung ương Khóa 12. Chúng ta cũng không tập trung vào một vài ngành kinh tế nào mà nay công nghiệp, dịch vụ, và đặc biệt là nông nghiệp đều cùng giữ vai trò và đóng góp quan trọng. Trong ngoại thương, nhờ nhiều hiệp định FTA, Việt Nam đã không quá tập trung vào một vài thị trường truyền thống; đồng thời chú trọng hơn nữa thị trường trong nước. Thu NSNN đạt kết quả ấn tượng, cơ bản đạt mục tiêu đề ra; chi NSNN chặt chẽ hơn, tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Tăng trưởng GDP có nhiều ý nghĩa vì phía sau đó là những nỗ lực bền bỉ của những ngày lao động cần cù, vất vả của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên. GDP không tính đến tuổi thọ và sức khỏe của người dân, không đo lường được sự tận tụy, cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức, không đong đếm được tình người trong bão lũ ở miền Trung và đại dịch COVID-19 vừa qua, và không thể phản ánh đầy đủ được bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Đó là lý do chúng ta bổ sung nhiều tiêu chí khác, nhất là việc làm và thu nhập. Trong 5 năm qua, nền kinh tế nước ta đã tạo ra được hơn 8 triệu việc làm mới cho người dân, trong đó bao gồm những người đến tuổi lao động và cả những người bị mất việc làm trước đó. Nhờ có việc làm tốt hơn, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, kinh tế phát triển, đời sống xã hội tốt đẹp hơn. Hiện thu nhập bình quân mỗi lao động đạt gần 5.000 đô-la một năm. Tính cả nhiệm kỳ qua, thu nhập bình quân của người dân chúng ta đã tăng gần 145%. Đánh giá theo tiêu chuẩn của WB tính theo sức mua tương đương, thu nhập trung bình của người dân VN tương đương gần 9.000 đô-la Mỹ.
Thu nhập là một tiêu chí quan trọng nhưng chúng ta chứng kiến, có những quốc gia có thu nhập tăng nhưng tuổi thọ của người dân không tăng, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hay tỷ lệ học vấn của người dân không được cải thiện. Việt Nam không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt được nhiều tiến bộ nhanh chóng về xã hội. Tuổi thọ trung bình của người dân chúng ta nay đã tăng lên gần 74 tuổi. Theo UNICEF, chúng ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao tỷ lệ sống sót của trẻ dưới 5 tuổi. Trong Báo cáo gần đây của UNDP, Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam đã được xếp vào nhóm phát triển cao của thế giới. Kinh tế phát triển nhanh nhưng tình trạng bất bình đẳng được kiểm soát tốt, cả bình đẳng về thu nhập lẫn bình đẳng giới. Việt Nam cũng đạt được nhiều thành quả vô cùng ý nghĩa về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn dưới 3% so với 10% của 5 năm trước. Cách đây hơn 1 năm, tôi rất cảm động khi đọc tin thấy cụ bà Đỗ Thị Mơ ở Thanh Hóa, dù đã 83 tuổi nhưng vẫn đạp xe lên xã xin trả lại sổ hộ nghèo. Tinh thần của Cụ là tấm gương có sức lan tỏa trong cả nước.
Về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất quan điểm "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển", xem "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Mỗi năm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục không thấp hơn 20% tổng chi ngân sách, tương đương trên 5,7% GDP, thuộc nhóm cao trên thế giới. Chất lượng giáo dục nhìn chung được nâng lên. Việt Nam tiếp tục giữ vững truyền thống xưa nay là giành nhiều thành tích quan trọng ở các kỳ thi khu vực và quốc tế.
Bên cạnh giáo dục, Đảng và Nhà nước ta cũng đã đầu tư và thực hiện ngày một tốt hơn các chính sách chăm sóc y tế cho nhân dân. Nếu không nhờ sự quan tâm và đầu tư đó, chúng ta rất khó đạt được những thành quả trong phòng chống dịch vừa qua. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia có mô hình chống dịch hiệu quả hàng đầu trên thế giới. Thành quả chống COVID-19 có được là ý chí của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân và đã phần nào cho thấy tính hiệu quả của hệ thống y tế công cộng mà Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư. Cùng với đó, chính sách bảo hiểm y tế đang đóng vai trò rất lớn trong mạng lưới an sinh xã hội. Nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không may mắc bệnh hiểm nghèo, rất cần sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế.
Chúng ta cũng vui mừng nhìn thấy sự thay đổi nhanh chóng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân trên mọi miền tổ quốc. Đô thị hóa đang lan tỏa mạnh mẽ. Chương trình nông thôn mới đã đem lại nhiều thay đổi rất tích cực. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đã ưu tiên nguồn lực ngân sách đáng kể để đầu tư kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế và các thiết chế văn hóa, v.v… vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện chính sách giảm nghèo, vừa phục vụ đời sống người dân. Đảng và Nhà nước luôn ghi nhận những đóng góp quan trọng của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL đã được triển khai trên cả giác độ tái cơ cấu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu. Song song, chúng ta đã và đang ngày càng quan tâm, đề cao ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của dân tộc ta.
Trong các chương trình nghị sự, Chính phủ đặt quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp vào vị trí trung tâm. Chính phủ đã đưa nghị quyết về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia lên Nghị quyết số 02, chỉ sau Nghị quyết 01 về nhiệm vụ phát triển KT-XH trong những năm qua.
Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; an ninh lương thực được bảo đảm; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ đang trở thành xu hướng; xuất khẩu nông sản đạt hơn 41 tỷ USD. Công nghiệp chuyển biến theo chiều sâu với tỉ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 23% lên 50% trong cùng kỳ. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học, công nghệ cao như viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử phát triển khá nhanh.
Bên cạnh kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chúng ta cũng vui mừng chứng kiến khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam ngày càng lớn mạnh trở thành mũi nhọn tại một số ngành/lĩnh vực kinh tế quan trọng. Doanh nghiệp của VN đang dần chiếm lĩnh một số vị trí then chốt của nền kinh tế. Chúng ta cũng vui mừng khi ngày càng nhiều doanh nghiệp VN chuyển hướng đầu tư vào công nghệ, sáng tạo, nắm bắt và làm chủ các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều sản phẩm hàng hóa do doanh nghiệp VN sản xuất hay thương hiệu Việt Nam, Made in Việt Nam đã vươn ra thị trường toàn cầu.
Mới đây, một hãng định giá thương hiệu nổi tiếng của Anh đã định giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam là 319 tỷ USD, tăng 29% so với năm ngoái, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 33 (tăng 9 bậc) trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới. Đây không phải là kết quả mới mà liên tục 4 năm qua, thứ hạng giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam đã tăng một cách vững chắc nhờ những nỗ lực của Việt Nam về cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh COVID-19, Việt Nam nổi lên là "thiên đường" sản xuất mới tại Đông Nam Á với những dự báo tích cực về tăng trưởng GDP.
Hệ thống tài chính của chúng ta đã lâu rồi mới tạo lập lại sự ổn định hiếm có như những năm qua. Thị trường chứng khoán tăng trưởng đạt điểm kỷ lục lịch sử với 1.200 điểm vào tháng 4/2018. Quy mô vốn hóa thị trường đạt trên 100% GDP, trong đó cổ phiếu đạt gần 70% GDP, giúp bổ sung thêm khoảng trên 120 tỷ đô-la vào tài sản quốc gia so với cách đây 5 năm. Giá trị tài sản của các ngân hàng tiếp tục tăng lên; năng lực tài chính, độ vững mạnh và an toàn hệ thống tiếp tục được củng cố, tỷ lệ nợ xấu thấp. Việc điều hành chính sách tiền tệ đạt được nhiều tiến bộ quan trọng, đặc biệt là các công cụ chính sách được sử dụng linh hoạt, thận trọng, bám sát các tín hiệu của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Chính sách tỷ giá phản ánh các quan hệ cung của thị trường hối đoái, sức mua của tiền đồng so với các đồng tiền quốc tế được duy trì, giúp đạt được mục tiêu ổn định vĩ mô.
Cán cân thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, trong đó đặc biệt là cán cân thương mại hàng hóa liên tục thặng dư trong suốt 5 năm qua nhờ những lợi thế cạnh tranh có tính cơ cấu, và nhờ sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều hành tỷ giá của Việt Nam không nhằm mục tiêu duy trì lợi thế xuất khẩu mà phản ánh khách quan các quan hệ của thị trường.
Cùng với cân đối bên ngoài tốt, cân đối bên trong cũng được cải thiện tích cực. Tỷ lệ bội chi ngân sách và nợ công đều được kéo giảm xuống mức an toàn hơn, nhờ đó không gian tài khóa và dư địa chính sách của chúng ta được nâng lên đáng kể. Chính dư địa này đã trở thành bệ đỡ, giúp nền kinh tế vượt qua muôn vàn khó khăn trong giai đoạn dịch bệnh do COVID-19 vừa qua. Ở góc độ người dân và doanh nghiệp, cũng như toàn xã hội nhờ có sự tích lũy sau những năm tăng trưởng tốt và việc làm ổn định mà hoạt động được duy trì, phúc lợi được giữ vững. Hệ số tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên ở mức triển vọng ổn định, trong khi rất nhiều quốc gia trên thế giới bị hạ bậc hoặc hạ triển vọng do dịch bệnh COVID-19 và những vấn đề về cơ cấu.
|
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: VGP |
Bất luận trong hoàn cảnh nào, Chính phủ đều nhận diện những hạn chế, khó khăn mà nền kinh tế nước ta đang gặp phải, chẳng hạn tăng trưởng kinh tế còn chưa tương xứng với tiềm năng và chưa thực sự bền vững. Công ăn việc làm của một bộ phận người dân chưa được đảm bảo, nhất là ở vùng nông thôn, khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức. Mặt bằng thu nhập vẫn còn thấp và thiếu ổn định, nhất là dưới tác động của COVID-19. Nhiều địa phương đang tăng trưởng nhanh nhưng không phải địa phương nào cũng tìm được động lực tăng trưởng tương xứng với tiềm năng, nhất là ở các tỉnh vùng sâu, miền núi, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn chung vẫn còn khó khăn, sức cạnh tranh thấp. Các vấn đề cơ cấu của nền kinh tế, những nút thắt về cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, cải cách thể chế pháp luật, môi trường kinh doanh… vẫn còn nhiều trở ngại, mỗi năm có hàng vạn doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.
Trong khi đó, chất lượng giáo dục, y tế và các chính sách xã hội của chúng ta nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Đô thị hóa phát triển nhưng chúng ta vẫn còn những khu nhà lụp xụp, quá tải. Những vấn đề sát sườn với đời sống người dân như tai nạn giao thông, an ninh trật tự, tội phạm xã hội, ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi, nhiều giá trị xã hội bị suy giảm; nhất là tình trạng suy nghĩ lệch lạc, mất định hướng giá trị, sống thiếu hoài bão, thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ. Ô nhiễm môi trường và tác động do biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện rõ.
Mọi người đều xót xa khi mỗi năm có nhiều trẻ em bị bạo lực, xâm hại và đuối nước. Chúng ta cũng còn nhiều cụ già neo đơn, không người chăm sóc vv…
Nhìn lại những đánh giá cách đây 5 năm, không ai nghĩ rằng kinh tế thế giới lại rơi vào suy thoái nghiêm trọng như hiện nay. Thậm chí cách đây chỉ 1 năm, từ Covid chưa hề xuất hiện trong từ điển của con người, tuy nhiên cách mạng 4.0, chuyển đổi số, khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo… cũng là những từ khóa thường xuất hiện trong những năm qua. Nhiều người cũng đã nói nhiều đến những thay đổi không chỉ về mặt công nghệ, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mà còn các mô thức kinh doanh mới, những loại hình việc làm mới, và cả những thay đổi trong cấu trúc xã hội, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, vấn đề nhân khẩu học, già hóa dân số, và cả biến đổi khí hậu cực đoan, v.v…
Trong số những thay đổi đó, có những thay đổi tích cực, mang lại nhiều đột phá để giải phóng sức lao động của con người, làm cho cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn, chẳng hạn như các đột phá trong y học ghép tạng giúp con người có thể sống khỏe mạnh và thọ hơn. Hay đơn cử là việc các nhà khoa học hiện nay chỉ mất gần 1 năm để tìm ra Vaccine COVID-19 trong khi thường cần khoảng 10 năm. Việt Nam chúng ta cũng bắt đầu tiến hành những thử nghiệm lâm sàng về Vaccine COVID-19 trên người, qua đó cho thấy nền y học của nước nhà không thua kém nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Tuy nhiên cũng có những thay đổi làm phát sinh nhiều rủi ro và làm trầm trọng hơn vấn đề bất bình đẳng, nguy cơ mất việc làm và sự suy giảm thu nhập. Các doanh nghiệp cũng sẽ dễ dàng dịch chuyển đến bất kỳ nơi đâu trên thế giới.
Chúng ta cũng nhìn thấy nhiều thách thức của biến đổi khí hậu mà Việt Nam là một trong số 05 nước bị ảnh hưởng nặng nề. Hiện tượng "lũ chồng lũ, bão chồng bão" hiếm có ở miền Trung mới đây là một ví dụ; hoặc tình trạng hạn hán, sa mạc hóa ở Nam Trung Bộ; tình trạng xâm nhập mặn ở ĐBSCL… Tuy nhiên, dù chúng ta có lo ngại hay lạc quan, muốn hay không muốn thì những thay đổi ấy vẫn đang diễn ra. Trách nhiệm của Nhà nước là phải kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tối đa những thiệt hại cho người dân và nền kinh tế. Đồng thời trong khó khăn, chúng ta cũng nhìn thấy cơ hội mang lại từ làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số là rất lớn, giúp mở ra không gian mới cho sự phát triển.
|
Các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: VGP |
Mọi người sẽ sớm nhận ra rằng, từ nửa sau thế kỷ 21 này, thế giới có thể sẽ không còn nhớ đến những quốc gia dẫn đầu về thu nhập nhưng sẽ luôn nhớ đến những quốc gia, những tổ chức, những cá nhân tiên phong trong một số thành tựu đem lại cuộc sống tốt hơn cho con người. Việt Nam chưa thể đứng ở nhóm đầu các quốc gia về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số ngành và lĩnh vực mới khai phá. Chúng ta cần sớm nhận ra cơ hội trong khó khăn. Nghị quyết 52NQ/TW của Bộ Chính trị cho thấy Đảng ta đã sớm nhận ra cơ hội này và đã chủ động đề ra chủ trương và chính sách lớn. Cả hệ thống chính trị và người dân chúng ta phải có trách nhiệm và quyết tâm đưa Nghị quyết đó vào thực tiễn, biến cơ hội thành lợi thế, biến lợi thế thành nguồn lực, chuyển nguồn lực thành kết quả tăng trưởng bền vững cho đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
“Tôi tin những đặc tính của dân tộc ta như tinh thần đoàn kết, ý chí, quyết tâm, tính cần cù, lạc quan và thích ứng nhanh sẽ làm nên thành công. Bởi cha ông ta, cũng với tinh thần đó, đã đứng vững trước mọi thách thức của thiên tai cũng như đẩy lùi mọi cuộc xâm lược để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc ta. Cũng với tinh thần đó, các nhà lãnh đạo đi trước đã giành được nhiều thành tựu vô cùng ý nghĩa trong gần 35 năm đổi mới. Chính tinh thần ấy đã giúp chúng ta được sự tiến bộ không ngừng trong 5 năm qua. Chính nhờ tinh thần ấy, tăng trưởng kinh tế của chúng ta luôn thuộc nhóm dẫn đầu thế giới. Cũng tinh thần ấy, tinh thần "chống dịch như chống giặc", chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan và giảm thiểu được thiệt hại kinh tế do COVID-19 gây ra. Những thành quả đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, là sự hòa quyện của "Ý Đảng và Lòng Dân"”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm chúng ta cần phải củng cố niềm tin vào những giá trị truyền thống, tin vào bản lĩnh, khí phách, sự gan góc của một dân tộc anh hùng. Nền kinh tế chúng ta, đất nước chúng ta đang tiến nhanh về phía trước với tốc độ mà cách đây ít năm một số đánh giá cho rằng điều này khó có thể xảy ra và chắc chắn rằng dân tộc chúng ta sẽ tiếp tục tiến nhanh hơn nữa về phía trước như tinh thần dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 của Đảng sắp khai mạc vào ngày 25/1/2021.
Sứ mệnh của chúng ta là kiến tạo một môi trường mà ở đó mọi người dân đều có cơ hội tham gia đóng góp vào sự phát triển và "không để ai bị bỏ lại phía sau". Chúng ta đã cùng nhau đạt được những kết quả bước đầu, và không được chủ quan bởi chúng ta còn có thể làm tốt hơn thế. Bên cạnh việc đầu tư những dự án lớn quốc gia, chúng ta cũng không được bỏ sót những dự án nhỏ, những con đường, chiếc cầu ở nông thôn, miền núi. Các cháu phải có cầu qua sông để đi học, đó là mệnh lệnh của trái tim! Cùng với giao thông, hạ tầng viễn thông cũng sẽ được nâng cấp và bao phủ hơn nữa, nhất là mạng 5G.
Giáo dục, đào tạo và dạy nghề là một cách trao cơ hội tốt nhất để mỗi người dân có thể tự mình tìm kiếm được một công việc phù hợp. Chúng ta sẽ phải nâng cấp chất lượng giáo dục, dạy nghề bắt đầu với việc lựa chọn, khuyến khích những thầy giáo, cô giáo có năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và đạo đức nghề nghiệp. Đất nước ta phải luôn đề cao tinh thần "tôn sư trọng đạo", "tiên học lễ, hậu học văn". Chính phủ phải đảm bảo môi trường học tập an toàn, lành mạnh, không có bạo lực, khói thuốc và chất kích thích, nhất là tệ nạn ma túy; xóa bỏ bệnh thành tích trong giáo dục.
Cùng với giáo dục, Đảng và Nhà nước ta sẽ đầu tư để có được một hệ thống chăm sóc sức khỏe có chất lượng, dễ dàng tiếp cận và chi phí phù hợp cho mọi người dân, nhất là đối với người dân vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Chúng ta phải tiếp tục mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm y tế lên 100% trong thời gian sớm nhất, đồng thời phải sớm thực hiện thông tuyến, mở rộng phạm vi thanh toán bảo hiểm y tế, nhất là đối tượng trẻ em, người già, người có hoàn cảnh khó khăn; hướng tới trẻ em dưới 16 tuổi cần được Nhà nước chi trả bảo hiểm y tế hoàn toàn.
Như tôi đã phát biểu trước Quốc hội mới đây, Chính phủ không chấp nhận tình trạng bệnh nhân mù mờ trước chi phí y tế. Chúng ta rất vui khi ngay sau đó, Bộ trưởng Bộ Y tế đã khai trương Cổng Công khai Y tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều việc cần làm để hệ thống y tế của chúng ta phục vụ nhân dân tốt hơn. Chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan của COVID-19 trong cộng đồng, và phải nỗ lực để không cho dịch tái bùng phát. Hiện Vaccine phòng COVID-19 đang tiến triển tốt. Chính phủ nỗ lực để không ai bị bỏ rơi do chi phí Vaccine cao vượt khả năng chi trả của người dân.
Cùng với giáo dục và y tế, chúng ta cũng đang xây dựng một lưới an sinh xã hội rộng lớn để bảo vệ những người yếu thế trong xã hội. Chúng ta phải có trách nhiệm chăm lo cho những người có công với đất nước; người nghèo, người tàn tật, người già, nhất là người già neo đơn; bảo vệ phụ nữ và trẻ em, nhất là trẻ em gái trước vấn nạn xâm hại tình dục, trẻ em bị ngược đãi về thể chất và tinh thần. Cùng với bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp cũng rất quan trọng để giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn, tìm được một cơ hội việc làm mới. Chúng ta thường xuyên quan tâm đến công tác quốc phòng an ninh và đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển, đặc biệt là trên Biển Đông.
Bên cạnh hai trụ cột Kinh tế và Xã hội, chúng ta phải chú trọng hơn nữa vấn đề Môi trường. Mọi người đều phải có trách nhiệm nhiệm bảo vệ môi trường, từ không khí cho đến nguồn nước, từ dòng sông cho đến con suối, từ hồ ra đến biển. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính Phủ đã yêu cầu đóng cửa rừng tự nhiên. Trước Quốc hội, Thủ Tướng CP đã đề xuất trồng 1 tỉ cây xanh trong 5 năm tới.
Cả hệ thống chính trị chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một xã hội phát triển toàn diện, ở đó mọi tầng lớp nhân dân bất kể thành phần, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tuổi tác… đều có cơ hội chung tay góp sức, chia sẽ khát vọng mãnh liệt về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 đặt mục tiêu:
Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 khoảng 6%, lạm phát khoảng 4%, cùng 10 chỉ tiêu KT-XH khác. Những chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở đã tính toán, cân đối các nguồn lực gắn với bối cảnh dự báo cho năm 2021, nhất là tình hình COVID-19 trong nước và thế giới. Mặc dù để đạt được mục tiêu này là rất thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu trong điều hành GDP 2021 thêm ít nhất 0,5 điểm phần trăm, lên mức 6,5% và đặt quyết tâm cao hơn cho các chỉ tiêu KT-XH khác.
Đất nước ta sẽ tiếp tục đối diện với nhiều cơ hội mới đan xen thách thức mới. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần tiếp tục hun đúc, gìn giữ ngọn lửa khát vọng, tinh thần lạc quan, bền bỉ cho 5 năm tiếp theo và xa hơn, với niềm tin và sự kiên định với lý tưởng và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
|
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ năm 2021. Ảnh: VGP |
NHIỀU DẤN ẤN NỔI BẬT TRONG 5 NĂM QUA
Báo cáo tóm tắt về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết:
Nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020 được thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên thế giới và trong khu vực ngày càng gay gắt. Xung đột thương mại và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, từ đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát trên toàn cầu dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại khủng hoảng 1929 - 1933. Ở trong nước, sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế và thiên tai, dịch bệnh, nhất là Đại dịch Covid 19, bão lũ, sạt lở đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.
Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội về phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020 và hằng năm, Chính phủ đã chủ động ban hành các nghị quyết, chương trình hành động cụ thể; xây dựng các phương án, kịch bản điều hành và quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Tinh thần chung trong chỉ đạo điều hành là quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân.
Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều kết luận, nghị quyết, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện "mục tiêu kép": vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần "chống dịch như chống giặc", vừa tập trung phục hồi và phát triển KTXH, bảo đảm đời sống nhân dân. Tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người lao động, người dân gặp khó khăn. Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy tiến độ các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, chú trọng chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; triển khai linh hoạt, hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam an toàn, nhân văn, tốt đẹp.
Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020.
1. Cả nước đã tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển KTXH. Trong khi đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu, chúng ta đã sớm kiểm soát, khống chế được dịch bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam là quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh, có cách làm đúng, kịp thời, hiệu quả, chi phí thấp. Thành công này thể hiện sự quyết tâm cao, ý chí thống nhất, hành động quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; thể hiện sức mạnh đoàn kết, truyền thống yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái của dân tộc; củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, khẳng định tính ưu việt của hệ thống chính trị và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
2. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015 (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, năm 2020 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN); GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 - 35%). Tăng trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, ngày càng dựa vào khoa học, công nghệ. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ giá, thị trường ngoại hối khá ổn định; lãi suất có xu hướng giảm dần; cán cân thanh toán thặng dư; hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện. Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường. Thu NSNN năm 2020 đạt 96% dự toán. Cơ cấu lại NSNN đạt kết quả tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng lên 81,6% (giai đoạn 2011 - 2015 là 68,7%); tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng lên 27 - 28%, tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn 62 - 63%. Bội chi NSNN và nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn và giảm so với giai đoạn trước. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt khoảng 33,4%. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020 ước đạt 19,1 tỷ USD). Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường.
3. Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt những kết quả tích cực. Đã hình thành hệ thống pháp luật khá đầy đủ, toàn diện. Các loại thị trường vận hành cơ bản thông suốt, bước đầu gắn kết với khu vực và quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 64,5%. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia có bước phát triển. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được tập trung nguồn lực đầu tư; nhiều công trình, dự án quan trọng đã được khởi công, xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo thêm năng lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất nước.
4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt nhiều kết quả. Vốn đầu tư công được tập trung cho những dự án cấp bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ NSNN thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong giai đoạn 2011-2020. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử l nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức dưới 3%. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều DNNN được nâng lên. 12 dự án yếu kém của ngành công thương được xử lý và đạt kết quả bước đầu, một số dự án đã có lãi và giảm lỗ lũy kế; đưa 3 dự án ra khỏi danh sách theo dõi, xử lý của Ban chỉ đạo.
Cơ cấu giữa các ngành và nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng ngành khai khoáng giảm, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh; tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020. Tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ; kinh tế hợp tác và doanh nghiệp nông nghiệp phát triển mạnh; xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm; đến nay đã có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu đề ra (50%); xuất khẩu nông sản năm 2020 ước đạt trên 41 tỷ USD. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học công nghệ cao phát triển nhanh.
5. Phát triển văn hoá, xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính sách đối với người có công với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có công được nâng lên; đến nay có gần 1,4 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm 2015, chiếm gần 33% lực lượng lao động. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh viện tuyến trên với 1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 75% năm 2015 lên 90,85% năm 2020. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng lên. Trong bối cảnh dịch Covid-19, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT thành hai đợt, bảo đảm nghiêm túc, công bằng và an toàn. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam có những chuyển biến tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các lễ kỷ niệm lớn, sự kiện quan trọng của đất nước được tổ chức trang trọng, thiết thực và an toàn. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích cao có bước tiến bộ. Đã trình Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện, thuộc nhóm nước có mức phát triển con người cao của thế giới, xếp hạng 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2019).
6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu có những chuyển biến rõ nét. Tập trung chỉ đạo kịp thời hỗ trợ khắc phục hậu quả, sớm ổn định đời sống và sản xuất của người dân vùng bị thiên tai, đặc biệt là bão lũ, sạt lở đất ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên vừa qua. Chấn chỉnh công tác cấp phép tài nguyên, khoáng sản, ngăn chặn khai thác cát, sỏi trái phép. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tập trung thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả, ứng phó các sự cố thiên
tai và cứu hộ, cứu nạn được chú trọng. Thực hiện hiệu quả các chương trình về ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững (nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long). Chỉ số phát triển bền vững năm 2020 của Việt Nam tăng 39 bậc so với năm 2016, xếp thứ 49/166 quốc gia và vùng lãnh thổ.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính chuyển biến tích cực, môi trường kinh doanh được cải thiện; phòng chống tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tỷ lệ tinh giản biên chế công chức, biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN lần lượt đạt 8,68% và 7,56%. Đã hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường. Tập trung thực hiện đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đến nay đã cắt giảm, đơn giản hóa 63% điều kiện kinh doanh, 68% danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông đi vào nền nếp, chất lượng giải quyết hồ sơ có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt trên 97%. Tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi; các mô hình kinh doanh mới và phong trào đổi mới, sáng tạo được đẩy mạnh. Mỗi năm có trên 100 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng k bình quân tăng hơn 1,8 lần so với năm 2015. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế; đã hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều mô hình mới, hiệu quả. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ xếp hạng 88/183 năm 2010 lên xếp hạng 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2019. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng và có chuyển biến tốt; đã điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng; công khai kết luận thanh tra, trong đó có những những vụ việc phức tạp được dư luận, xã hội quan tâm như AVG, Khu đô thị mới Thủ Thiêm,..
8. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng. Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Thực hiện đồng bộ các chiến lược, đề án về quân sự, quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn, phá hoại của các thế lực thù địch, phản động; xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự; tình hình tội phạm, tai nạn giao thông giảm dần. Đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai chủ động, toàn diện, đồng bộ, đạt nhiều kết quả quan trọng; ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do. Đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực. Uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được khẳng định và nâng cao.
Bên cạnh kết quả đạt được, chúng ta thẳng thắn nhìn nhận nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập. Tăng trưởng kinh tế năm 2020 không đạt kế hoạch đề ra do tác động của đại dịch Covid-19, dẫn đến tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 không đạt mục tiêu. Khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực chính thúc đẩy năng suất lao động, năng lực cạnh tranh. Cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, khoảng cách phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp. Việc thực hiện gói hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp bị ảnh hưởng sâu bởi đại dịch COVID-19 chưa đạt yêu cầu đề ra. Cải cách hành chính một số lĩnh vực còn bất cập; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn khó khăn. Kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm. Còn tình trạng thiếu quyết liệt, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp. Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời. Khiếu kiện về đất đai còn những vụ việc phức tạp, kéo dài.
|
Ảnh: VGP |
Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021 và thời gian tới, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết:
Năm 2021 có nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 - 2030. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, đối tác lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột thương mại gia tăng và những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tài chính, tiền tệ, nợ công trên phạm vi toàn cầu và những thách thức lớn đối với thương mại, đầu tư, tăng trưởng và các vấn đề xã hội.
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính trị - xã hội ổn định, vị thế uy tín quốc tế cao. Việt Nam được đánh giá là quốc gia nhiều tiềm năng, có thị trường gần 100 triệu dân với thu nhập ngày càng tăng, cơ cấu dân số vàng; không gian phát triển rộng mở với 14 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Chỉ tiêu cụ thể đặt ra cho năm 2021 với 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45-47%; năng suất lao động xã hội tăng khoảng 4,8%; tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 66% (trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng 25,5%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế khoảng 91%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1-1,5 điểm phần trăm so với năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%...
Nhiệm vụ của năm 2021 và thời gian tới là rất nặng nề đòi hỏi các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu… để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2021, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển đất nước trong 5 năm, 10 năm tới và hiện thực hoá khát vọng phát triển đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
|
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020. - Ảnh: VGP |
KHÓ KHĂN GẤP HAI, NỖ LỰC GẤP BA
Trình bày báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết: Quán triệt phương châm từ đầu nhiệm kỳ là “Xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân”; năm 2020 Chính phủ đã đề ra phương châm: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả” với 138 nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; 49 nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh.
Trước tình hình dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thống nhất quan điểm điều hành với tinh thần “khó khăn gấp hai thì phải nỗ lực, cố gắng gấp ba”, quyết tâm thực hiện "mục tiêu kép"; phấn đấu hoàn thành mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong điều kiện “bình thường mới”.
Về một số trọng tâm chỉ đạo, điều hành nổi bật, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm trước Nhân dân và đất nước, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; chủ động, tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ, linh hoạt, sáng tạo, quyết liệt trong điều hành, vừa thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, vừa xử lý kịp thời những vấn đề đột xuất, phát sinh, trong đó nổi bật là:
1. Chủ động, quyết liệt, ứng phó kịp thời, ngăn chặn, kiểm soát tốt đại dịch COVID-19; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động đánh giá đúng tình hình, coi phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng; đề ra các giải pháp kịp thời, kiên quyết, sớm hơn và cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và phù hợp diễn biễn dịch với phương châm “4 tại chỗ”. Chú trọng thực hiện chiến lược ngăn chặn dịch từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để; điều trị hiệu quả các ca nhiễm; tự chủ trong sản xuất vật tư, trang thiết bị y tế, nhất là việc phát triển sản xuất vắc-xin COVID-19. Huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả hệ thống chính trị, cộng đồng xã hội, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm của đội ngũ y bác sỹ, lực lượng quân đội, công an, tạo nên sức mạnh tổng hợp ngăn chặn thành công dịch COVID-19.
Từ đầu nhiệm kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt chủ trương “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; “kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên”. Tăng cường công tác giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề môi trường.
Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo khắc phục sự cố môi trường tại 4 tỉnh ven biển miền Trung. Tăng cường quản lý chất thải rắn, ngăn chặn rác thải nhựa. Chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa trong phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Triển khai sớm các giải pháp cấp bách kiểm soát hạn hán,
xâm nhập mặn, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long nên diện tích lúa bị thiệt hại năm 2020 chỉ bằng 9,6% so với năm 2016. Tập trung chỉ đạo với phương châm “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; rà soát, cập nhật các kịch bản phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất; kịp thời ban hành chính sách hỗ trợ khắc phục thiệt hại.
2. Hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp do đại dịch Covid 19; bảo đảm an sinh xã hội và ổn định đời sống cho nhân dân.
Năm 2020, trước tác động của dịch COVID-19, với tinh thần nhất quán “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã kịp thời báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và triển khai nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ vượt trội, chưa từng có tiền lệ về tài khóa, tín dụng, bảo hiểm xã hội, giảm giá điện, giá cước viễn thông... Tăng cường bảo hộ công dân, tổ chức các chuyến bay đón hơn 75.000 người Việt Nam về nước an toàn. Giai đoạn 2016-2020, các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ; triển khai tích cực Đề án và chủ trương đầu tư phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
3. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phục hồi và phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ luôn kiên định, nhất quán mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là phối hợp hài hòa chính sách tài khóa và tiền tệ; theo dõi sát tình hình, chủ động xây dựng, cập nhật kịch bản tăng trưởng với phương án, giải pháp kịp thời, phù hợp, đặc biệt là kịch bản phục hồi kinh tế năm 2020 để tận dụng tốt thời cơ, giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Công tác giải ngân vốn đầu tư công gắn với đẩy nhanh tiến độ các dự án quan trọng quốc gia là nhiệm vụ xuyên suốt của giai đoạn 2016-2020; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đổi mới toàn diện công tác giao, điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công; đề xuất Quốc hội cho phép Chính phủ linh hoạt trong việc giao vốn, điều chuyển vốn đầu tư công. Riêng năm 2020, Chính phủ đã tổ chức 03 Hội nghị trực tuyến toàn quốc; thành lập 07 đoàn công tác kiểm tra, đôn đốc công tác này.
Khơi thông xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm nghiêm trọng; thúc đẩy phát triển bền vững thị trường nội địa. Chính phủ chỉ đạo cơ cấu lại thị trường, mặt hàng xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường; kịp thời tháo gỡ khó khăn phát sinh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới thông qua các hiệp định thương mại tự do. Qua đó, duy trì mức xuất siêu tăng dần qua các năm; xuất siêu kỷ lục năm 2020 dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid 19. Chú trọng phát triển thị trường nội địa, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, tăng cường kết nối cung cầu hàng hoá giữa khu vực nông thôn và thành thị, phát triển thương mại điện tử, bảo đảm cung cầu hàng hóa trong mọi tình huống. Tăng cường quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
4. Khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương và từng vùng; khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, thu hút các nguồn lực cho phát triển. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Trước tác động kép thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các giải pháp ổn định sản xuất nông nghiệp; năm 2020 sản xuất lúa được mùa, được giá, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu. Hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 trước gần 2 năm. Tập trung tháo gỡ khó khăn, khôi phục chuỗi cung ứng, phát triển công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, tạo động lực cho phục hồi, phát triển kinh tế. Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa, điển hình là ngành công nghiệp ô tô.
Với phương châm Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, ngay từ đầu nhiệm kỳ và hằng năm, Thủ tướng Chính phủ gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, đề ra các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Tập trung hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết của Đảng. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Thủ tướng CP đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để
bàn các giải pháp cùng doanh nghiệp “nỗ lực, vượt thách thức, đón thời cơ, phục hồi nền kinh tế”, tiếp tục duy trì tinh thần hứng khởi kinh doanh trong toàn xã hội. Đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Thành lập Tổ công tác về đầu tư để đón đầu làn sóng đầu tư mới từ nước ngoài. Chính phủ đã khẩn trương rà soát, hoàn thiện việc lập quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; đánh giá thực trạng các vùng kinh tế trọng điểm, đề ra giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách điều phối liên kết vùng; trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính sách, mô hình đặc thù đối với một số địa phương, tạo lan tỏa phát triển. Đẩy mạnh triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Chấn chỉnh công tác quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh.
5. Tập trung rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định công tác xây dựng pháp luật là khâu đột phá, đã ưu tiên, dành nhiều thời gian cho công tác này, nhất là tại phiên họp Chính phủ thường kỳ và 7 phiên họp chuyên đề. Chính phủ đã đổi mới tư duy, quy trình xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng kiến tạo, tạo hành lang, khuyến khích phát triển, một văn bản sửa nhiều văn bản, cắt giảm tối đa văn bản quy định chi tiết, ban hành văn bản mới phải bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác rà soát mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Quốc hội. Lần đầu tiên, Chính phủ tổ chức Hội nghị toàn quốc đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật giai đoạn 2016 - 2020 và Thủ tướng CP đã ban hành chỉ thị để tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác này.
Chính phủ thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch công tác trọng tâm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; chỉ đạo tăng cường thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng; phát hiện, xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản; ban hành cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác đặc biệt và đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; số vụ việc khiếu nại, tố cáo và số đoàn đông người giảm, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân. Xử lý hiệu quả các tranh chấp đầu tư quốc tế, giảm thiểu thiệt hại cho nhà nước.
6. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử; đổi mới phương thức làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”, giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng CP chú trọng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, giảm giấy tờ; đổi mới công tác điều hành dựa trên nền tảng dữ liệu số. Tiếp tục phát huy hiệu quả của các hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành 71 văn bản quy phạm pháp luật để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Chính phủ tập trung hoàn thiện khung pháp lý; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, giảm bớt chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết của Trung ương; đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và Tổ công tác về kiểm tra công vụ, qua đó kỷ luật công vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao có nhiều chuyển biến tích cực.
7. Quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống của Nhân dân; tăng cường thông tin, truyền thông tạo đồng thuận xã hội.
Phát huy, lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền nhân dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước và trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ.... Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tổ chức dạy học trực tuyến và kỳ thi năm 2020 bảo đảm an toàn, nghiêm túc, khách quan, thuận lợi trong điều kiện dịch bệnh. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh; nâng cao năng lực y tế cơ sở. Đẩy mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, khuyến khích xã hội hóa. Tích cực xây dựng, triển khai chính sách khuyến khích phát triển Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. Thu hút, trọng dụng cá nhân trong nước, nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại Việt Nam.
8. Tăng cường quốc phòng, an ninh; chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ động nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại quan trọng của đất nước, nhất là Đại hội đảng bộ các cấp, Hội nghị cấp cao ASEAN... Trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và quốc tế quan trọng, nổi bật là việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021; tổ chức thành công cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ 2 tại Hà Nội và đặc biệt là vai trò Chủ tịch ASEAN 2020. Tiếp tục làm sâu sắc thêm các mối quan hệ song phương, tăng cường quan hệ với các nước lớn, các đối tác quan trọng. Tích cực thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do, trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, thị trường rộng lớn như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP).
Về tồn tại, hạn chế, kỷ cương, kỷ luật hành chính, đổi mới lề lối làm việc trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn chậm. Trách nhiệm của một số bộ, ngành trong phối hợp xử lý công việc chưa cao. Còn thiếu quyết liệt chưa chủ động tìm hướng đi mới, chậm phản ứng trước những vấn đề phát sinh.
Về một số bài học kinh nghiệm, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nêu rõ:
Một là, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước. Hai là, coi trọng công tác dự báo, bám sát thực tiễn; thống nhất cao trong nhận thức và hành động; đề cao tính chủ động, đổi mới, sáng tạo và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành.
Ba là, khơi dậy truyền thống, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa tốt đẹp, tinh thần nhân ái và niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển và vươn lên mạnh mẽ. Bốn là, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương; xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường, đổi mới, hội nhập và phát triển. Năm là, biến thách thức thành cơ hội, đổi mới tư duy, cách làm với phương châm phục vụ người dân, doanh nghiệp; tận dụng các cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thích ứng nhanh với bối cảnh mới.
Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của năm 2021, Chính phủ đề cao tinh thần đoàn kết, kỷ cương; yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung thực hiện “mục tiêu kép”, không lơ là, chủ quan trước đại dịch; tranh thủ thời cơ, nỗ lực phục hồi và phát triển KTXH trong trạng thái bình thường mới với khát vọng phát triển, tinh thần đổi mới sáng tạo, cải cách mạnh mẽ, quyết liệt hành động hơn nữa. Phát huy trách nhiệm người đứng đầu, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2021, tạo nền tảng vững chắc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
|
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. - Ảnh: VGP |
NĂM 2021: 8 TRỌNG TÂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH, 185 NHIỆM VỤ CỤ THỂ
Trình bày về dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và Dự toán NSNN năm 2021, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết: Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, bầu cử HĐND các cấp và là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030; Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, và các kế hoạch theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; đại dịch Covid-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài.
Trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp; yêu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn chế.
Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn trong năm 2021.
Chính phủ xác định phương châm hành động của năm 2021 là: "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển " và đề ra 08 trọng tâm chỉ đạo, điều hành:
(1) Chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng để phục vụ tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
(2) Thực hiện hiệu quả "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới.
Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả và đồng bộ các chính sách vĩ mô để kích thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn.
Theo dõi sát diễn biến, tình hình trong nước và quốc tế, kịp thời dự báo và chuẩn bị phương án, kịch bản, biện pháp, đối sách ứng phó hiệu quả với những biến động, vấn đề mới phát sinh.
(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Đổi mới quản trị quốc gia. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật. Nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
(4) Quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm hiệu quả, thực chất gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, cung cấp các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, thu hút mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
(5) Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, trí tuệ con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường, niềm tự hào dân tộc.
Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
(6) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Phát triển mạnh hạ tầng số.
Đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, các dự án liên kết vùng, bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập;
Phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn.
(7) Củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển nhanh, bền vững; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
(8) Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, kịp thời phản ánh, lan tỏa các nhân tố tích cực để tạo niềm tin, đồng thuận trong toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các chỉ tiêu KTXH năm 2021 gồm:
a) 12 chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết số 124/2020/QH14 của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ (Phụ lục 1).
b) 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực (Phụ lục 3). Đây là các chỉ tiêu cụ thể mà Chính phủ đặt ra cho các ngành, lĩnh vực bên cạnh 12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao.
c) Kịch bản tăng trưởng năm 2021 (Phụ lục 2) chia theo từng quý và cả năm.
Nghị quyết đề ra 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu và 185 nhiệm vụ cụ thể tại Phụ lục 4.
Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là:
(1) Triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ để phục vụ tổ chức thành công Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp;
Xây dựng, ban hành ngay các chương trình hành động, kế hoạch công tác để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
(2) Tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế.
Đẩy nhanh việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong phát triển vắc-xin và có giải pháp để người dân tiếp cận vắc-xin phòng dịch Covid-19 sớm nhất.
Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả nguồn bệnh xâm nhập từ bên ngoài, xem xét mở lại các đường bay thương mại quốc tế khi điều kiện cho phép.
Chủ động bố trí nguồn lực, triển khai kịp thời, phù hơp các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.
(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo thuận lợi cho phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững.
Điều hành chủ động, phối hợp chặt chẽ các chính sách, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
(4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số. Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.
Nâng cao chất lượng và tích hợp cung cấp dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo.
(5) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển; đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng.
Phát triển kinh tế biển; tăng cường liên kết vùng; quản lý và phát triển đô thị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực phù hợp cho xây dựng nông thôn mới.
(6) Nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, có giải pháp thu hút, bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Phát huy vai trò hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo.
(7) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế.
Nâng cao trình độ, thành tích của thể thao thành tích cao. Tổ chức tốt việc đăng cai SeaGames 31 và ASEAN Para Games 31. Bảo đảm an ninh y tế, an toàn thực phẩm, chất lượng tiêm chủng, khám, chữa bệnh.
Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững; bảo đảm việc làm, thu nhập, an sinh xã hội cho người dân; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách về giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội.
Triển khai thực hiện kịp thời các nhiệm vụ về công tác dân tộc trong tình hình mới.
(8) Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.
(9) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
Tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện có hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
(10) Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển đất nước.
Tăng cường các nguồn lực thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quân đội, bảo đảm quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trên các tuyến biên giới, biển đảo, địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng của đất nước.
(11) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo niềm tin, đồng thuận xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường phối hợp công tác giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Về tổ chức thực hiện, dự thảo Nghị quyết yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải cụ thể hoá Nghị quyết bằng cac chương trình hành động cụ thể của bộ, ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.
Các Bộ, ngành phải làm tốt công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như thực hiện tốt công tác quản lý ngành, lĩnh vực để đảm bảo thực hiện thành công Nghị quyết của Chính phủ về phát triển KTXH, NSNN năm 2021.
|
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. - Ảnh: VGP |
NHIỀU CHỈ SỐ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH TIẾN BỘ VƯỢT BẬC
Báo cáo tóm lược Kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 và Dự thảo Nghị quyết 02/NQ-CP năm 2021 về cải thiện môi trường kinh doanh và âng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết:
Thực hiện các Chương trình cải cách hành chính đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nỗ lực tháo gỡ nhiều khó khăn vướng mắc, khai thông nguồn lực trong xã hội, thu hút đầu tư từ bên ngoài. Việt nam luôn được coi là một địa điểm đầu tư hấp dẫn và là nền kinh tế năng động, có độ mở lớn và duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao trên thế giới. Từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cải cách, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.
Từ năm 2014, hàng năm Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (những năm đầu là Nghị quyết 19/CP và từ năm 2019 là Nghị quyết 02/CP) với các mục tiêu, giải pháp rất cụ thể, bám sát vào các bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế có uy tín. Bước sang nhiệm kỳ này, phù hợp với Chương trình Nghị sự vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Nghị quyết của Chính phủ đã mở rộng bao quát thêm các bộ chỉ số hàm chứa những yếu tố có tính căn bản, nền tảng, dài hơi hơn ngoài các chỉ số liên quan tới môi trường kinh doanh trong ngắn hạn như các bộ chỉ số về Phát triển nguồn nhân lực, phát triển Chính phủ điện tử, Năng lực Đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 02/CP năm 2020 được xây dựng dựa trên 7 bộ chỉ số với trên 200 tiêu chí đo lường chi tiết liên quan tới hầu hết các lĩnh vực, các ngành, các cấp và có phân công cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm cho từng nhóm tiêu chí; thậm chí từng tiêu chí quan trọng.
Các Nghị quyết 19/CP và sau này là Nghị quyết 02/CP của Chính phủ đã nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung ương tới địa phương; sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, sự tham gia của toàn xã hội. Qua đó đã góp phần hoàn thiện thêm một bước thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tháo gỡ được nhiều rào cản, khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân. Phần lớn các chỉ số được đánh giá định kỳ 1 năm hoặc 2 năm của các tổ chức quốc tế đều ghi nhận sự tiến bộ rõ về điểm số tuyệt đối và cải thiện thứ hạng của Việt Nam.
Trực tiếp nhất là thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 20 bậc, từ thứ 90 năm 2015 lên thứ 70 năm 2019. Xếp hạng Năng lực cạnh tranh được thay đổi cách đánh giá từ năm 2018 thành Năng lực cạnh tranh 4.0. Khi đó Việt Nam đứng thứ 77. Một năm sau vị trí của chúng ta đã tăng 10 bậc lên thứ 67.
Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, từ thứ 75 năm 2015 lên thứ 63 năm 2019. Xếp hạng Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, từ thứ 64 năm 2016 lên thứ 39. Xếp hạng Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc từ thứ 59 năm 2016 lên thứ 42 năm 2020.
Trong các bộ chỉ số, các bảng xếp hạng quốc tế đó, có không ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta ghi nhận những tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, từ thứ 108 (năm 2015) lên thứ 27 (năm 2019). Nộp thuế và BHXH tăng 59 bậc, từ thứ 168 (năm 2015) lên thứ 109 (năm 2019). Ứng dụng CNTT tăng 54 bậc, từ thứ 95 (năm 2015) lên thứ 41 (năm 2019) .v.v.
Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Đây là bộ chỉ số được Liên hợp quốc xây dựng, đánh giá dựa trên các tiêu chí bám sát 17 nhóm mục tiêu phát triển bền vững (với 169 mục tiêu cụ thể).
Cộng đồng doanh nghiệp trong nước cũng ghi nhận rất tích cực những kết quả, tiến bộ trong thực hiện các Nghị quyết này.
Bên cạnh những kết quả quan trọng, đáng khích lệ đó, vẫn còn không ít chỉ tiêu cụ thể mà điểm tuyệt đối và thứ hạng của Việt Nam vẫn còn thấp và hầu như không được cải thiện về thứ bậc như: Giải quyết phá sản doanh nghiệp đứng thứ 122. Rào cản phi thuế quan đứng thứ 121. Bảo vệ hệ sinh thái bền vững đứng thứ 110. Đăng ký tài sản thứ 106. Bảo vệ sở hữu trí tuệ thứ 105. Kết nối hạ tầng đường bộ thứ 104. Ngay nộp thuế và bảo hiểm dù đã tăng tới 59 bậc nhưng vẫn đứng thứ 109.
Thực tế những năm qua cho thấy Bộ, ngành nào chủ động, quyết tâm thì các chỉ số được cải thiện rõ ràng hơn và ngược lại. Tới đây, việc cải thiện vị trí càng khó và đòi hỏi nỗ lực cao hơn vì các quốc gia, nên kinh tế khác cũng rất chú trọng công tác này. Mặt khác, nhiều tiêu chí, chỉ số không chỉ đơn thuần liên quan tới thủ tục hành chính có thể nhận diện, sửa đổi hoặc bãi bỏ ngay mà còn phải sửa luật và ngày càng có nhiều chỉ số phải nỗ lực liên tục trong một số năm mới có thể cải thiện được, nhất là liên quan tới hạ tầng, nhân lực và các yếu tố xã hội.
Phó Thủ tướng cho biết, năm 2020 này, do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, việc đánh giá xếp hạng của các tổ chức quốc tế có những thay đổi đáng kể và nhiều bảng xếp hạng không được công bố. Trong nước, thực hiện “mục tiêu kép” các nỗ lực thực hiện Nghị quyết 02/CP không hề giảm. Thậm chí nhiều nhiệm vụ đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn (như dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, thanh toàn không dùng tiền mặt…). Xác định năm 2021 sẽ là năm bắt đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 nên Nghị quyết 02/CP năm 2020 cũng đã đề ra các nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu cụ thể cho năm 2020 và định hướng cho năm 2021.
Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện động bộ tất cả các mục tiêu giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thời đặt trọng tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác.
Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, bao gồm: Cấp phép xây dựng (A3), Đăng ký tài sản (A7), Giải quyết tranh chấp hợp đồng (A9), Giải quyết phá sản doanh nghiệp (A10), Chất lượng quản lý hành chính đất đai (B3), Ứng dụng công nghệ thông tin (B5), Chất lượng đào tạo nghề (B6) và 10 tiêu chí cụ thể. Cùng với đó là 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới sáng tạo, bao gồm: Chất lượng hành chính đất đai, Chất lượng đào tạo nghề, Kỹ năng của sinh viên, Rào cản phi thuế quan, Đăng ký phát minh sáng chế, Kiểm soát tham nhũng, Mức độ tiếp cận CNTT, Mức độ tham gia giao dịch trực tuyến, Cơ hội việc làm trong các ngành thâm dụng tri thức, Môi trường trong bền vững sinh thái.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 bốn nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, gồm:
(1) Tập trung khắc phục những yếu kém, hạn chế trong việc kết nối, phối hợp giữa các cơ quan; làm rõ hơn vai trò cơ quan đầu mối cho từng nhóm chỉ tiêu, từng chỉ tiêu; phân định và quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho từng cơ quan.
(2) Tập trung chỉ đạo chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đồng bộ với thực hiện cải cách hành chính; đảm bảo thiết thực, hiệu quả gắn với các giải pháp tăng mức độ sẵn sàng với nền sản xuất mới trong thời kỳ CMCN lần thứ IV.
(3) Có chiến lược, kế hoạch trung, dài hạn với mục tiêu rõ ràng, bước đi cụ thể, kiên trì để tạo chuyển biến vững chắc đối với các tiêu chí có tính chất nền tảng, nhưng khó cải thiện trong thời gian ngắn như bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nghèo đa chiều, phát triển vùng núi, vùng sâu, vùng xa v.v. phấn đầu giữ vững và cải thiện thứ hạng phát triển bền vững đồng thời phát triển nhanh cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững (hiện mới có 2000 DN trong tổng số hơn 700.000 DN).
(4) Tiếp tục chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19. Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 về thực hiện nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Dự thảo Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2021.
BƯỚC TIẾN MỚI VỀ CẢI CÁCH TTHC, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng trình bày báo cáo tóm tắt kết quả cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử và hoạt động của Tổ công tác năm 2020 và 5 năm (2016 - 2020) phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Theo báo cáo, về cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thể chế cho công tác cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Từ năm 2016 đến nay, đã ban hành 37 văn bản, gồm 08 Nghị định, 19 Nghị quyết, 02 Chỉ thị, 08 Quyết định, thay đổi căn bản quy trình thực hiện thủ tục hành chính từ thủ công, giấy tờ sang điện tử, phi giấy tờ với 1.097 thủ tục, 992 mẫu đơn và 399 tờ khai liên quan đến thủ tục hành chính (TTHC) được cắt giảm, đơn giản hóa.
Trong năm 2020, đã cắt giảm thêm 239 điều kiện kinh doanh (ĐKKD). Tính chung giai đoạn 2016 - 2020, đã cắt giảm 3.893/6.191 ĐKKD, 6.776/9.926 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành (KTCN) và 30 TTHC liên quan đến KTCN; 1.501 mặt hàng KTCN chồng chéo đã được xử lý. Đề án cải cách kiểm tra chuyên ngành theo hướng giao cơ quan hải quan làm đầu mối KTCN tại cửa khẩu, được khẩn trương xây dựng. Việc cắt giảm này đã giúp tiết kiệm cho xã hội, người dân, doanh nghiệp khoảng 18 triệu ngày công/năm, tương đương 6.300 tỷ đồng/năm.
Giai đoạn 2016 - 2020, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã tổ chức 33 phiên họp, hội nghị với Hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước, tiếp nhận, kiến nghị xử lý 442 vấn đề, nhóm vấn đề để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Năm 2020, chủ trì Chương trình nghị sự lần thứ 6 của Mạng lưới thực hành quy định tốt ASEAN-OECD với 03 phiên hội nghị trực tuyến, giúp các nước chia sẻ kinh nghiệm về cải cách quy định để đối phó với khủng hoảng, như đại dịch Covid-19, được OECD đánh giá là chương trình trực tuyến thành công nhất.
Với những nỗ lực và kết quả đạt được nêu trên của các bộ, cơ quan, địa phương, đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao thứ hạng của Việt Nam trong các xếp hạng quốc tế: Xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu giai đoạn 2016- 2020 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam tăng 20 bậc, xếp thứ 70/190 quốc gia, nền kinh tế; Xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI, năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng 10 bậc giai đoạn 2018-2019, từ 77 lên 67/141 quốc gia; Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020 của Việt Nam xếp thứ 42/131 quốc gia, nền kinh tế, giữ vị trí số 1 trong nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập.
Về xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản QPPL, chương trình, chiến lược, đề án, kế hoạch, bảo đảm hành lang pháp lý cho việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.
Nhiều Hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử được đưa vào vận hành, giúp đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước cũng như cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp:
(i) Trục liên thông văn bản quốc gia được khai trương từ ngày 12/3/2019, đến nay đã kết nối, liên thông gửi, nhận văn bản điện tử giữa 95/95 cơ quan Trung ương và địa phương; hơn 3,7 triệu văn bản điện tử, gửi nhận qua Trục; giúp tiết kiệm được trên 1.200 tỷ đồng/năm.
(ii) Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (e-Cabinet) được vận hành từ ngày 24/6/2019 đến nay đã phục vụ 24 phiên họp Chính phủ và hơn 620 phiếu lấy ý kiến TVCP, giúp thay thế hơn 225 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy; chi phí tiết kiệm được khoảng 169 tỷ đồng/năm.
(iii) Cổng Dịch vụ công quốc gia sau một năm vận hành, đã có hơn 2.650 dịch vụ công được tích hợp, cung cấp trên tổng số 6.700 TTHC (đạt tỷ lệ 39%, vượt chỉ tiêu Chính phủ giao 9%), với hơn 99 triệu lượt truy cập, hơn 412 nghìn tài khoản đăng ký; hơn 27,2 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; trên 719 nghìn hồ sơ thực hiện trực tuyến và hơn 46 nghìn giao dịch thanh toán điện tử; tiếp nhận, hỗ trợ trên 43,8 nghìn cuộc gọi, hơn 9,6 nghìn phản ánh, kiến nghị. Chi phí xã hội tiết kiệm được khoảng hơn 6.700 tỷ đồng/năm.
(iv) Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020 đã kết nối với 14 bộ, cơ quan, 37 địa phương và 106/200 chỉ tiêu kinh tế - xã hội; 63/63 tỉnh đã cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 08 chỉ tiêu kinh tế - xã hội... Chi phí tiết kiệm khi vận hành Hệ thống này khoảng 460 tỷ đồng/năm.
Tổng chi phí tiết kiệm cho xã hội ước tính trên 8.500 tỷ đồng/năm từ các Hệ thống trên (theo cách tính của OECD).
Trục liên thông văn bản quốc gia, Hệ thống e-Cabinet, Cổng Dịch vụ công quốc gia đều được bình chọn nằm trong 10 sự kiện nổi bật về công nghệ thông tin và truyền thông, về khoa học và công nghệ do các câu lạc bộ Nhà báo công bố năm 2019. Trong đó, Trục liên thông văn bản quốc gia đã đạt giải vàng của giải thưởng kinh doanh quốc tế năm 2019 tổ chức tại Cộng hòa Áo, Hệ thống e-Cabinet được vinh danh tại giải thưởng Sao Khuê năm 2020 cho giải pháp phần mềm xuất sắc. Năm 2020, theo bình chọn của Thông tấn xã Việt Nam, Cổng Dịch vụ công quốc gia được bình chọn là đột phá của chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Liên hợp quốc xếp hạng Chính phủ điện tử năm 2020, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ tăng 02 bậc so với năm 2018, duy trì việc tăng hạng liên tục trong giai đoạn 2014-2020 từ vị trí 99 lên vị trí 86, được xếp vào nhóm các nước phát triển Chính phủ điện tử ở mức cao và cao hơn chỉ số trung bình thế giới.
Về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Mai Tiến Dũng cho biết, từ khi thành lập đến nay, Tổ công tác đã thực hiện 103 buổi làm việc với 24 bộ, cơ quan, 44 địa phương, 12 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước; có 16 buổi làm việc với các cơ quan, Hiệp hội doanh nghiệp để đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ giao, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách và những rào cản hành chính mà doanh nghiệp đang gặp phải để tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ biện pháp tháo gỡ. Trong đó, có 18 cuộc về việc thực hiện nhiệm vụ giao; 11 cuộc về công tác hoàn thiện thể chế; 21 cuộc về cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành và cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh; 19 cuộc đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ về thực hiện mục tiêu tăng trưởng; 10 cuộc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp; 14 cuộc về xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính; 08 cuộc đẩy nhanh tiến độ xây dựng, trình các đề án trong CTCT...
Qua các cuộc kiểm tra, tinh thần, quan điểm, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ được quán triệt, đôn đốc thực hiện; đưa các giải pháp, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành những kết quả cụ thể, đi vào cuộc sống. Hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng đã có tác động lan tỏa mạnh mẽ, tạo áp lực, thúc đẩy các bộ, cơ quan, địa phương quyết liệt, quyết tâm trong việc thực hiện nhiệm vụ giao. Học tập sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ và kinh nghiệm hoạt động của Tổ công tác, hầu hết các bộ, cơ quan địa phương đều thành lập Tổ công tác. Nhiều vấn đề tồn tại, bất cập, chậm được xử lý, giải quyết có liên quan đến công tác chỉ đạo, điều hành của các bộ, cơ quan, địa phương được khắc phục, chấn chỉnh kịp thời.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao chuyển biến rõ nét, ngày càng thực chất. Thời điểm đầu nhiệm kỳ (đầu năm 2016) - khi Tổ công tác chưa thành lập, nhiệm vụ quá hạn chiếm tới 25,2%. Đến nay, số nhiệm vụ quá hạn chỉ còn 1,8% - giảm 23,4% so với năm 2016.
Đặc biệt, các nhiệm vụ giao tại các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ được thực hiện nghiêm túc, cơ bản đúng tiến độ, trong năm có 473/479 nhiệm vụ giao đã hoàn thành; còn 6 nhiệm vụ chưa hoàn thành quá hạn. Tuy nhiên, một số nhiệm vụ chậm được thực hiện, như: Việc triển khai sử dụng dịch vụ thu phí đường bộ theo hình thức điện tử không dừng, việc chuyển giao đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước...
Các đề án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư được trình bảo đảm đúng tiến độ, không chậm nợ. Trong năm, đã trình 43/43 đề án - đạt 100%. - Trong năm 2020, có tổng số 543 đề án trong CTCT của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đến nay còn 51 đề án chưa trình, trong đó chỉ có 15 đề án nợ đọng chiếm 2,8% - giảm 5,2% so với năm 2019 (8%); cả giai đoạn 2016-2020 có 2.462 đề án giao; như vậy đến nay, tỷ lệ nợ đọng là 0,6%, giảm 16,5% so với thời điểm đầu nhiệm kỳ - năm 2016.
Công tác hoàn thiện thể chế tiếp tục được cải cách, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, phương pháp xây dựng văn bản quy định chi tiết theo hướng tích hợp, cắt giảm tối đa số lượng đầu văn bản quy định chi tiết theo đúng chỉ đạo của Chính phủ để đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tránh phát sinh thêm thủ tục hành chính, giảm chồng chéo, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tra cứu và thực thi.
Từ 49 văn bản quy định chi tiết Luật có hiệu lực từ 01/01/2021 theo phân công, đến nay, các bộ đã có phương án tích hợp còn 28 văn bản - giảm 21 văn bản so với phân công. Trong đó, Bộ LĐTBXH đã chủ động, tích cực tích hợp từ 14 Nghị định còn 4; Bộ KHĐT đã tích hợp từ 12 Nghị định còn 5. Đến nay, đã ban hành 03/28 văn bản; đã trình 23/28 văn bản; còn 02/28 văn bản chưa trình.
Số văn bản quy định chi tiết nợ đọng, chậm ban hành giảm thấp nhất từ trước đến nay. Trong đó, năm 2017 - là năm đầu tiên không nợ văn bản quy chi tiết thuộc thẩm quyền Chính phủ. Đến thời điểm hiện nay chỉ còn nợ 6 văn bản; giảm mạnh so với số lượng văn bản nợ đọng cuối nhiệm kỳ khóa XII (58 văn bản) và nhiệm kỳ khóa XIII (39 văn bản).
Kênh tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân tiếp tục phát huy hiệu quả. Từ ngày 09/12/2019, Hệ thống tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp được tích hợp vào Cổng Dịch vụ công quốc gia. Đến nay, Hệ thống này đã tiếp nhận 4.713 kiến nghị (trong tổng số hơn 9,6 nghìn phản ánh, kiến nghị trên Cổng Dịch vụ công quốc gia), trong đó có 1.914 kiến nghị thuộc phạm vi xem xét, xử lý; đã chuyển xử lý 1.327 kiến nghị, đến nay có 1.119 kiến nghị đã được xử lý; còn 208 kiến nghị đang được bổ sung hồ sơ.
Về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, trên cơ sở các kiến nghị của Tổ công tác, giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao các bộ, cơ quan, địa phương triển khai thực hiện hơn 300 nhiệm vụ, trong đó, Chính phủ yêu cầu rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung 56 văn bản, đến nay, 55/56 văn bản đã được ban hành, có hiệu lực.
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan và địa phương tập trung, triển khai nghiêm túc, hiệu quả chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị định 09/2019/NĐ-CP, số 45/2020/NĐ-CP, số 09/NĐ-CP; các Nghị quyết số 68/NQ-CP, số 02/NQ-CP; Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi gắn với xây dựng Chính phủ điện tử.
Có giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản; quyết tâm không để nợ đọng văn bản quy định chi tiết, các đề án sang năm sau. c) Bảo đảm lồng ghép, cắt giảm tối đa số lượng văn bản quy định chi tiết theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Bộ Tư pháp thực hiện việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các bộ, ngành trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, nhất là trong việc lồng ghép, cắt giảm tối đa văn bản quy định chi tiết Luật, Pháp lệnh theo đúng chỉ đạo của Chính phủ.
Giao Tổ công tác tiếp tục tập trung đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, đặc biệt là chuyên đề về công tác hoàn thiện thể chế; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tình hình xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính; việc thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; việc thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP, số 68/NĐ-CP và các Nghị quyết chuyên đề quan trọng, có phạm vi tác động lớn, liên quan đến chủ trương cải cách và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, đời sống người dân.
MỘT SỐ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM NĂM 2020
|
Nguồn:Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
|
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ |
Nhóm phóng viên