|
Các chuyên gia kinh tế tại Tọa đàm (Ảnh: HNV) |
Ngày 16/1, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức Tọa đàm “Công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý IV và cả năm 2019”.
Cơ hội bứt phá của nền kinh tế nhìn từ 2019
Tại Tọa đàm, PGS.TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng VEPR cho biết, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động về kinh tế - chính trị, nền kinh tế Việt Nam trong Quý IV năm 2019 chỉ tăng trưởng ở mức 6,97%, thấp hơn so với năm 2018.
“Lạm phát tăng mạnh trong giai đoạn cuối năm do giá thực phẩm tăng vì hoạt động chăn nuôi suy giảm. Đây là quan ngại lớn của nền kinh tế trong Quý IV năm nay. Nhìn chung, so với cùng kì năm ngoái, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều diễn biến kém tích cực hơn”, ông Thế Anh nhận xét.
Cũng theo ông Phạm Thế Anh, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam cả năm 2019 đạt mức 7,02%, mặc dù thấp hơn so với mức tăng trưởng năm 2018 nhưng vẫn là điểm sáng trong khu vực và thế giới.
Đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng vẫn là hai khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ với sự tăng trưởng nổi bật là ngành chế biến chế tạo, sản xuất phân phối điện nước và xây dựng. Cùng với đó, ngành khai khoáng cũng đã có sự tăng trưởng nhẹ sau 3 năm liên tiếp sụt giảm.
Đáng chú ý, khu vực nông, lâm và ngư nghiệp trong năm 2019 đã gặp nhiều yếu tố bất lợi từ thời tiết và dịch tả lợn châu Phi bùng phát và sự thu hẹp của thị trường xuất khẩu nhưng vẫn tăng trưởng ở mức 2,01% với sự tăng trưởng ấn tượng của ngành thủy sản trên 6%.
Trong năm 2019, khu vực dịch vụ tăng trưởng cao hơn năm 2019 với sự tăng trưởng khá đồng đều với đa số ở mức trên 7% thuộc về các ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, bán buôn, bán lẻ và vận tải kho bãi.
Tăng trưởng vốn đầu tư khu vực nhà nước thấp, trong khi khu vực FDI và tư nhân tăng trưởng và tỷ lệ giải ngân cao. Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung khiến dòng vốn từ Trung Quốc tăng trưởng nhanh nhưng có thể kéo theo những rủi ro về môi trường và quản lý lao động nước ngoài.
Lạm phát ở dưới ngưỡng 4% nhưng việc CPI leo dốc trong tháng 12 vượt qua ngưỡng 5% sẽ tiềm ẩn không ít lo ngại cho các quý trong năm 2020.
“Tính đến hết năm 2019, chỉ số PMI đã đánh dấu chuỗi 49 tháng mở rộng liên tiếp của khu vực sản xuất. Điều này chứng tỏ niềm tin của các doanh nghiệp vào nền sản xuất là không thay đổi, họ vẫn hi vọng sản lượng sẽ tiếp tục mở rộng trong những năm mới. Đó là triển vọng tích cực của khu vực sản xuất nói riêng và của nền kinh tế nói chung trong thời gian tới”, PGS.TS. Phạm Thế Anh nhận định.
Với bối cảnh hiện nay, dự báo về tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ lệ lạm phát trong năm 2020 theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Quốc hội mới ban hành, nhóm nghiên cứu của VEPR cho rằng, những mục tiêu của năm 2020 là có thể đạt được.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ cần rất nhiều nỗ lực để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,8% và lạm phát dưới 4% do những bất ổn chính trị trên thế giới có ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế trong nước.
Nhóm nghiên cứu dự báo, mức tăng trưởng kinh tế Quý I/2020 sẽ ở mức 6,33%; Quý II ở mức 6,27%; Quý III ở mức 6,58%; Quý IV ở mức 6,64% và tăng trưởng cả năm 2020 chỉ ở mức 6,48%. Tương tự, tỷ lệ lạm phát trong các quý năm 2019 tương ứng ở các mức 4,88%; 4,49%; 4,13% và 4,04%.
Cùng với đó, VEPR cũng dự báo, triển vọng kinh tế Việt Nam trong dài hạn sẽ phụ thuộc vào FDI với kết quả gỡ bỏ rào cản thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế được kỳ vọng sẽ khởi sắc sau việc kí kết các Hiệp định thương mại tự do như CPTPP và EVFTA.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần phải thận trọng trong quan hệ thương mại quốc tế. Việc đối xử với các quốc gia trong thương mại quốc tế là một trong những vấn đề lớn của Việt Nam trong năm 2020.
Gia tăng dự trữ ngoại hối đảm bảo năng lực chống chọi với những cú sốc bên ngoài
Đánh giá về Báo cáo kinh tế vĩ mô Quý IV và cả năm 2019 của VEPR, chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành cho rằng, dù con số nào thì tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2019 vẫn thực sự ấn tượng trong bối cảnh hiện nay.
Đi cùng với đó, TS. Võ Trí Thành cũng lưu ý, năm 2019, Việt Nam là 1 trong 7 đối tác xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ, cùng với lượng dự trữ ngoại hối tăng tới hơn 71 tỷ USD. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam có nguy cơ bị Mỹ cáo buộc thao túng tiền tệ. Vì thế, TS. Võ Trí Thành khuyến nghị Ngân hàng nhà nước cần cẩn trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt và khách quan.
Về chính sách tiền tệ, VEPR cho rằng cần thận trọng hơn với tăng trưởng cung tiền (khống chế trong khoảng 12%/năm). Tuy tổng phương tiện thanh toán có xu hướng tăng chậm lại trong những năm gần đây, tỷ lệ M2/GDP của Việt Nam hiện vẫn ở ngưỡng cao. Trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn giữ lãi suất điều hành ở mức thấp, việc giảm cung tiền sẽ giúp Việt Nam có thêm dư địa chính sách tiền tệ để ứng phó với các cú sốc bên ngoài.
Tại buổi tọa đàm, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam vẫn cần phải gia tăng dự trữ ngoại hối nhằm đảm bảo năng lực chống chọi với những cú sốc bên ngoài.
“Năng lực chống chọi với cú sốc bên ngoài của Việt Nam vẫn còn yếu so với các nước. Dự trữ ngoại hối năm 2019 tăng rất mạnh. Tuy nhiên, điều này chỉ tương đương 3,7 tháng nhập khẩu, chỉ trên ngưỡng an toàn một chút. Các nước ASEAN 4, ASEAN 5 thì có tỷ lệ dự trữ ngoại hối trung bình khoảng 4 - 8 tháng nhập khẩu” - TS. Cấn Văn Lực nêu quan điểm.
Theo vị chuyên gia này, việc tăng dự trữ ngoại hối cần “có mua có bán”, không can thiệp liên tục và không dùng tỷ giá để can thiệp vào xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Đồng quan điểm, PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR cho rằng cần phải nâng dự trữ ngoại hối lên tới 140 - 150 tỷ USD, tương đương với một nửa số nhập khẩu, nhằm giúp Việt Nam tăng cường khả năng ứng phó trước các cú sốc bên ngoài khi nền kinh tế đã rất mở.
Báo cáo Kinh tế Vĩ mô hàng Quý của VEPR được công bố liên tục từ đầu năm 2016, nhằm cập nhật và thảo luận kịp thời những vấn đề đang đặt ra cho kinh tế Việt Nam. Báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý IV và cả năm 2019 được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Viện Konrad – Adenauer Stiftung (KAS) Việt Nam. |