|
Giá các loại vật liệu xây dựng như sắt thép, xi măng, cát, đá,... biến động mạnh, có tác động đến các lĩnh vực khác nhau |
Nhận diện rõ các nguyên nhân sốt giá
Thời gian qua, giá các loại vật liệu xây dựng như sắt thép, xi măng, cát, đá,... biến động mạnh, có tác động đến các lĩnh vực khác nhau. Điều này không chỉ làm các DN kinh doanh bị giảm doanh thu mà còn khiến cho các công trình xây dựng, nhất là các công trình nhà ở của người dân, cũng bị ảnh hưởng.
Cụ thể, riêng về thép, từ tháng 1/2021, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thép thông báo điều chỉnh tăng giá bán khoảng từ 300-900 đồng/kg tùy theo chủng loại và nhà sản xuất. Trong tháng 4/2021, mức tăng khoảng 1.600-1.700 đồng/kg tùy từng chủng loại. Hiện nay, giá bán tại các nhà máy sản xuất thép ở mức khoảng từ 16.200-17.800 đồng/kg tùy chủng loại và nhà sản xuất (giá giao tại nhà máy, chưa bao gồm 10% thuế VAT, chiết khấu bán hàng).
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, ông Đặng Công Khôi, Phó Cục trưởng Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính) cho rằng, giá thép xây dựng tăng trong giai đoạn vừa qua có sự tác động của biến động tăng giá phôi thép trên thị trường thế giới. Do nhu cầu từ thị trường Trung Quốc tăng mạnh khiến cho giá nguyên liệu thô sản xuất thép như thép phế, phôi thép từ khoảng giữa tháng 10/2020 đến nay liên tục tăng. Theo khảo sát, nắm bắt thông tin thì giá chào phôi, thép phế trên thị trường thế giới ở thời điểm hiện tại tăng khoảng 37-39% so với tháng 10/2020.
Trong đó, giá chào bán phôi thép thị trường thế giới tháng 4/2021 tăng khoảng 50-55 USD/tấn so với cuối tháng 3/2021… Riêng trong tháng 4/2021, giá phôi nội địa tăng khoảng 1.450 đồng/kg, giá thép phế tăng khoảng 1.200 đồng/kg.
Còn theo thông tin từ Bộ Xây dựng, ngoài giá phôi tăng, nguyên nhân mất cân đối về cung-cầu, nguồn cung về vật liệu thép xây dựng khan hiếm cũng làm tăng giá thép.
Cụ thể, qua khảo sát các đại lý bán lẻ mặt hàng sắt, thép xây dựng tại một số thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, thì ngoài việc tăng giá thép vào thời điểm cuối năm mang tính chu kỳ do nhu cầu xây dựng, sửa chữa gia tăng và do việc khởi công một số công trình trọng điểm sử dụng vốn đầu tư công, thì năm nay giá thép có yếu tố bất thường hơn do lượng thép thành phẩm nhập khẩu giảm, thép trong nước sản xuất không đủ cung. Trong khi đó sản lượng xuất khẩu thép tăng mạnh cũng làm tăng sức ép từ tổng cầu thép trong nước, đặc biệt là thép thành phẩm.
Về cơ cấu, loại thép thanh trong nước đã sản xuất được nhưng số lượng còn hạn chế và phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, dẫn đến phụ thuộc nhiều vào thép nhập khẩu trong khi sản lượng nhập khẩu giảm, dễ mất cân bằng cung cầu thép xây dựng trong nước.
Ông Đặng Công Khôi cho biết, theo quy định tại Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thì các mặt hàng thép xây dựng, xi măng, cát, đá... không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nước quản lý giá. Vì vậy, quan điểm của Bộ Tài chính là cần ưu tiên các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu, kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời hiện tượng lợi dụng tăng giá nguyên liệu đầu vào để tăng giá bất hợp lý.
Điều hành “lựa” theo quy luật thị trường
Trước việc giá thép tăng cao, vừa qua, Bộ Công Thương đã đề nghị Thủ tướng chỉ đạo một số bộ có cơ chế hỗ trợ, trong đó có đề nghị Bộ Tài chính có chính sách điều tiết thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng thép có biến động lớn về giá.
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ về vấn đề này, ông Trương Bá Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế (Bộ Tài chính) cho hay, để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước trong việc hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với thép nhập khẩu, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với nguyên liệu để sản xuất thép được quy định ở mức thấp là 0% (nhóm 72.03), 3% (nhóm 72.04) và 1% đối với phôi thép (nhóm 72.06). Việc quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thép thấp trong thời gian qua đã góp phần thúc đẩy ngành thép trong nước giảm giá thành đầu vào và mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Đối với thuế nhập khẩu thép thành phẩm, hiện mặt hàng thép xây dựng thuộc nhóm 72.13 đến 72.16 có mức thuế suất thuế MFN là 15% đối với thép hình, thép góc và 20% đối với thép dạng thanh que. Những mặt hàng này nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc và từ Ấn Độ. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện đang là thành viên của 14 Hiệp định thương mại tự do, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số Hiệp định này đối với các mặt hàng thép xây dựng tương đối thấp như Hiệp định ASEAN (ATIGA), Việt Nam-Nhật Bản (VJFTA), Việt Nam Hàn Quốc (VKFTA)…
Như vậy, có thể thấy mức thuế suất thuế nhập khẩu mặt hàng thép đã được quy định trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc theo quy định của luật, đồng thời phù hợp với thực trạng phát triển của ngành thép trong nước cũng như cam kết về cắt giảm thuế quan khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và khi tham gia các Hiệp định FTA.
Ngoài ra, ông Trương Bá Tuấn cho biết, vừa qua Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 918/QĐ-BCT ngày 20/3/2020 về việc tiếp tục áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam thêm 3 năm.
Theo đó, các chủng loại phôi thép nhập khẩu được áp dụng mức thuế suất thuế tự vệ ở mức 15,3% từ ngày 22/3/2020 đến ngày 21/3/2021; 13,3% từ ngày 22/3/2021 đến ngày 21/3/2022 và 11,3% từ ngày 22/3/2022 đến ngày 21/3/2023. Còn đối với các sản phẩm thép dài nhập khẩu vào Việt Nam, mức thuế tự vệ được áp dụng tương ứng cho từng giai đoạn là 9,4%; 7,9% và 6,4%. Động thái này nhằm ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước.
Phó Vụ trưởng Trương Bá Tuấn cho rằng, Việt Nam có thể xem xét việc điều chỉnh chính sách thuế tự vệ đối với phôi thép và các sản phẩm thép xây dựng trong giai đoạn hiện nay để giảm giá thành nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất thép và giá thép xây dựng bán ra trên thị trường trong nước.
“Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, việc đặt vấn đề giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng thép thành phẩm cần được cân nhắc, tính toán cẩn trọng để vừa góp phần thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển bền vững, bình ổn thị trường thép trong nước, bảo đảm tuân thủ đúng các nguyên tắc được quy định trong Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016. Quan trọng là cần phải có các giải pháp để cân đối cung cầu, nâng cao năng lực sản xuất thép trong nước”, ông Trương Bá Tuấn nói.
Còn ông Đặng Công Khôi, Phó Cục trưởng Cục Quản lýgiá cho hay, CPI mỗi tháng còn dư địa tăng 0,66% để đảm bảo mục tiêu kiểm soát dưới 4%. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn rủi ro đối với công tác kiểm soát lạm phát do tình hình thế giới như giá nhiên liệu, phôi thép, thép phế thế giới có thể diễn biến tăng cao đột biến làm giá trong nước tăng theo.
Để góp phần giải quyết vấn đề trong dài hạn, đại diện Cục Quản lý giá cho rằng cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy trình để đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Giá cho phù hợp với quan điểm, nguyên tắc và tính thống nhất, đồng bộ trong xây dựng pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế thị trường, phát triển kinh tế xanh và bền vững. Qua đó, hướng đến mục tiêu khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế phát sinh trong thời gian qua, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá.
Trước đó, định hướng cho việc điều hành giá trong bối cảnh hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã kịp thời có ý kiến chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương có liên quan triển khai các giải pháp theo chức năng nhiệm vụ về công tác điều hành giá năm 2021.
Trong đó, đối với mặt hàng thép xây dựng, lãnh đạo Chính phủ đã giao Bộ Công Thương nghiên cứu có các biện pháp thúc đẩy tăng năng lực sản xuất thép thành phẩm trong nước, hướng tới đáp ứng được cơ bản nhu cầu trong nước; nghiên cứu điều chỉnh sự mất cân đối cung ứng sản phẩm thép trên thị trường để ưu tiên thị trường trong nước thông qua việc điều chỉnh, cân đối khối lượng xuất khẩu thép thành phẩm; giao Bộ Xây dựng chủ động nghiên cứu, hướng dẫn thay đổi công nghệ xây dựng nhằm giảm tải lượng thép tiêu thụ trong các công trình xây dựng…
Liên quan đến việc giá thép “lên đồng”, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, dù việc tăng giá thép có nguyên nhân khách quan từ thế giới nhưng Việt Nam tăng như vậy là khá cao. Còn quá sớm để nói rằng không có sự “bắt tay” của một số DN ngành thép nhằm đẩy giá lên cao. Hơn nữa, có thể có hiện tượng “té nước theo mưa”, khi các DN đua nhau tăng giá, hoặc có không ít nhà thầu phản ánh về việc gặp khó khi nhà cung cấp “găm hàng” chờ đẩy giá. “Cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý thị trường, chống gian lận thương mại, bảo vệ pháp luật cần có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn, kiểm tra, thanh tra, để có minh chứng cụ thể, khách quan hơn về thị trường. Nếu phát hiện có sự thao túng, liên kết cùng nâng giá, cần có biện pháp xử lý bảo đảm thị trường phát triển lành mạnh, công bằng”, ông Ngô Trí Long nói.
|
Huy Thắng