Tình hình thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW của Ban Bí thư về “nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong 5 năm qua 

Đảng bộ tỉnh Quảng Trị hiện có 14 đảng bộ trực thuộc (10 đảng bộ huyện, thị xã, thành phố; 01 đảng bộ khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh; 03 đảng bộ lực lượng vũ trang); 608 tổ chức cơ sở đảng: 250 đảng bộ cơ sở và 358 chi bộ cơ sở; 09 đảng bộ bộ phận và 2.192 chi bộ trực thuộc. Tổng số đảng viên là 50.313 đồng chí (chiếm 7,69% dân số).

Trong những năm qua, Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp luôn quan tâm, triển khai thực hiện tốt công tác tổ chức xây dựng Đảng; thường xuyên quán triệt vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên; có nhiều giải pháp tích cực nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ đảng viên nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới. Căn cứ các quy định, hướng dẫn của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành nhiều đề án, nghị quyết, chỉ thị, công văn[1] để lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị liên quan quan tâm, chú trọng công tác củng cố, xây dựng tổ chức đảng và công tác phát triển đảng viên, nhất là việc xây dựng kế hoạch và tạo nguồn kết nạp ở các thôn, bản thuộc các xã miền núi, địa bàn khó khăn, các chi bộ nông thôn, các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các hội viên, đoàn viên ưu tú trong các tổ chức chính trị - xã hội, công nhân, lao động trực tiếp, lực lượng dân quân tự vệ, công an viên và thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ, góp phần tăng cường, bổ sung lực lượng, trẻ hóa đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Các cấp ủy nghiên cứu, nắm quy trình, thủ tục, các bước triển khai từ khâu giới thiệu tạo nguồn đến công tác bồi dưỡng, công tác thẩm tra hồ sơ, lý lịch, kết luận tiêu chuẩn chính trị để kết nạp đảng viên mới. Việc kết nạp đảng viên và công nhận đảng viên chính thức được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định, hướng dẫn của Trung ương. Hồ sơ, thủ tục được thẩm định kỹ về tiêu chuẩn, điều kiện của người vào Đảng. Nhờ vậy, số lượng, chất lượng đảng viên từng bước được nâng lên; đảng viên mới kết nạp đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ được giao; hầu hết đội ngũ đảng viên được rèn luyện vững vàng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, chấp hành tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát huy được tính tiên phong, gương mẫu trong công tác và sinh hoạt, gần gũi, sâu sát với quần chúng nhân dân.

Công tác quản lý đảng viên luôn được cấp ủy quan tâm chỉ đạo, tích cực theo dõi và chủ động tập trung tìm những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng công tác. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ, kịp thời giúp đỡ, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và qua kiểm điểm, đánh giá, phân loại đảng viên hằng năm cho thấy số lượng đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm tỷ lệ ngày càng cao[2].

Công tác quản lý hồ sơ đảng viên đảm bảo chặt chẽ; việc bổ sung hồ sơ được tiến hành định kỳ theo đúng quy định. Hồ sơ đảng viên thực hiện theo mẫu quy định chung và lưu trữ có hệ thống, khoa học, thuận lợi cho việc khai thác. Việc tiếp nhận và chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên được tiến hành kịp thời, nghiêm túc, đúng quy trình, thủ tục. Việc cập nhật hồ sơ đảng viên và chuẩn hóa, đồng bộ phần mềm cơ sở dữ liệu đảng viên 3.0 được tiến hành thường xuyên, tạo thuận lợi cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ từ tỉnh đến huyện trong việc thống kê tổ chức đảng và đảng viên, phát thẻ đảng viên, tặng huy hiệu đảng, tìm kiếm thông tin về đảng viên, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ...

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, công tác kết nạp và quản lý đảng viên có những khó khăn nhất định: Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; công tác giải quyết việc làm tại địa phương còn khó khăn, thanh niên có điều kiện, tiêu chuẩn đi làm ăn xa, đa số đi học đại học, học nghề, xuất khẩu lao động, làm công nhân ở các địa phương khác, số ở lại địa phương mặc dù tham gia sinh hoạt đoàn thể nhưng chưa có ý thức, không có nguyện vọng phấn đấu vào Đảng hoặc không đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện làm cho công tác phát triển đảng viên gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh; cùng với việc sáp nhập thôn, bản, khu phố, xã, phường, thị trấn đã tác động lớn đến việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, nhất là việc phát triển đảng viên ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào có đạo và trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp trong tỉnh đều là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, mang tính chất hộ gia đình, ít lao động, hoạt động chủ yếu theo thời vụ, công việc không ổn định, chỉ lo làm kinh tế tạo thu nhập, chưa có nguyện vọng đứng vào hàng ngũ Đảng. Một số đảng viên sau khi được kết nạp hoặc đảng viên xuất ngũ trở về địa phương phải đi làm ăn xa, làm việc lưu động, tự do xa nơi cư trú nên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng, xin ra khỏi Đảng dẫn đến xóa tên khỏi danh sách đảng viên.

Một số cấp ủy cấp huyện, cấp ủy cơ sở chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phát hiện, bồi dưỡng đoàn viên, hội viên ưu tú để giới thiệu cho tổ chức đảng xem xét, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng. Cán bộ phụ trách công tác phát triển đảng viên ở cơ sở hoạt động kiêm nhiệm nhiều việc, thường xuyên thay đổi công tác nên hạn chế trong công tác tham mưu, đề xuất giải pháp thực hiện. Công tác quản lý, phân công nhiệm vụ đối với đảng viên, đánh giá chất lượng đảng viên ở một số tổ chức đảng chưa chặt chẽ; khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn thấp. Tình trạng đảng viên đi làm ăn xa trong nước và xuất khẩu lao động tự bỏ sinh hoạt đảng hoặc xin ra khỏi Đảng có chiều hướng gia tăng.

Sau khi có Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21/01/2019 của Ban Bí thư về “nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 151-KH/TU, ngày 17/10/2019 về thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW của Ban Bí thư về “nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”. Căn cứ Hướng dẫn 02-HD/BTCTW, ngày 12/4/2021 của Ban tổ chức Trung ương về thực  hiện Chỉ thị số 28-CT/TW, Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã Hướng dẫn số 03-HD/BTCTU ngày 29/4/2021 về “hướng dẫn tiêu chí, quy trình rà soát, phát hiện, giáo dục, giúp đỡ, sàng lọc đảng viên không còn đủ tư tư cách ra khỏi Đảng” để thực hiện.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức quán triệt đến các huyện ủy, thị ủy, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; lãnh đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh; đồng thời chỉ đạo các cấp uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ tổ chức quán triệt, triển khai nghiêm túc các nhiệm vụ, giải pháp của Chỉ thị số 28-CT/TW, Kế hoạch số 151-KH/TU đến tổ chức đảng, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về xây dựng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần xây dựng tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Xác định công tác phát triển đảng viên là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển của Đảng ta. Thời gian qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quyết liệt chỉ đạo các cấp ủy đảng thực hiện công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên đảm bảo về số lượng và chất lượng, đặc biệt quan tâm phát triển đảng viên ở địa bàn khu dân cư, trong các doanh nghiệp và các ngành y tế, giáo dục, học sinh trường THPT; quần chúng vi phạm chính sách DS-KHHGĐ, quần chúng là người có đạo. Thành lập các đoàn khảo sát nguồn kết nạp đảng viên trong các ngành có đông cán bộ, công nhân viên chức và người lao động, ở địa bàn dân cư; tổ chức các buổi đối thoại ở thôn, bản, khu phố và trong các trường THPT để nắm bắt tình hình, tuyên truyền, định hướng nhằm đưa ra các giải pháp tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong công tác phát triển đảng viên. Đồng thời tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt công tác tạo nguồn phát triển đảng viên và giao chỉ tiêu kết nạp đảng viên cho từng cấp ủy, tổ chức đảng. Thực hiện việc gắn chỉ tiêu phát triển đảng viên với trách nhiệm của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy, xem đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng và người đứng đầu hàng năm. Chỉ đạo các trung tâm chính trị cấp huyện nâng cao chất lượng giảng dạy và linh hoạt trong việc bố trí giờ học tạo điều kiện cho học viên tham gia đầy đủ, nhất là đối với người lao động trong các doanh nghiệp và học sinh THPT.

Việc kết nạp đảng viên mới đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục theo quy định; đảng viên mới được kết nạp có phẩm chất chính trị tốt, đạo đức trong sáng, nhận thức về Đảng đúng đắn. Tiếp tục quan tâm giáo dục, bồi dưỡng đối với đảng viên dự bị; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống “tự soi”, “tự sửa”. Kịp thời chấn chỉnh đối với những đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ, đảng viên không thực hiện đúng quy trình về chuyển sinh hoạt đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước, đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp, không hoàn thành nhiệm vụ. Từ đó cấp ủy, chi bộ theo dõi, rà soát sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn tư cách ra khỏi Đảng.

Các cấp ủy đảng luôn quan tâm, chú trọng và có nhiều nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện đảng viên. Công tác quán triệt, học tập nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được tuyên truyền, phổ biến đến tất cả đảng viên; trong sinh hoạt đảng luôn phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động; công tác kiểm tra, giám sát đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nghiêm theo đúng quy định, hướng dẫn của Đảng, nhất là đối với đảng viên có dấu hiệu vi phạm.

Cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã tích cực, chủ động cụ thể hóa điều kiện kết nạp đảng viên, đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp để giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, phân công công tác và quản lý đảng viên, sàng lọc, phân loại đảng viên, đưa những trường hợp không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Phần lớn đảng viên vững vàng về chính trị, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng, phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu của người đảng viên. Công tác quản lý đảng viên được coi trọng, thông qua hồ sơ, phiếu đảng viên và các dữ liệu liên quan, theo dõi biến động của đảng viên, xét chuyển đảng viên chính thức… đều có phân công cán bộ phụ trách và chịu trách nhiệm cập nhật đầy đủ, chính xác, kịp thời không để xảy ra sai sót; việc lưu trữ và bảo mật được thực hiện theo đúng quy định. Việc phân công công tác cho đảng viên được các chi bộ chú trọng, tùy vào điều kiện sức khỏe, năng lực, sở trường, các đảng viên đều được phân công công tác phù hợp. Đối với các đảng viên cao tuổi, già yếu được miễn công tác và sinh hoạt đảng nhưng vẫn giữ gìn được tư cách đảng viên, là tấm gương để các đảng viên trẻ noi theo, học tập.

Thực hiện Hướng dẫn số 02-HD/BTCTW, ngày 12/4/2021 của  Ban Tổ chức Trung ương, Hướng dẫn số 03-HD/BTCTU, ngày 29/4/2021 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, việc rà soát, phát hiện, giáo dục, giúp đỡ, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng được các cấp ủy tiến hành chặt chẽ và thận trọng, đúng quy trình và thủ tục theo quy định của Điều lệ Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương và hướng dẫn của Ban Bí thư Trung ương Đảng, góp phần duy trì kỷ luật, kỷ cương trong Đảng; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Bám sát các tiêu chí về rà soát, sàng lọc đảng viên, từ khi thực hiện hướng dẫn của Trung ương và tỉnh đến nay (31/5/2024), cấp ủy các cấp đã tiến hành theo dõi, rà soát, sàng lọc có 765 đảng viên vi phạm, trong đó, có 46 đảng viên hai năm liền bị xếp loại không hoàn thành nhiệm vụ, 165 đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng hoặc pháp luật của Nhà nước đã bị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật mức cảnh cáo, 36 đảng viên qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình hoặc qua kiểm tra, giám sát cấp ủy có thẩm quyền kết luận có suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hoặc vi phạm về đạo đức, lối sống, cần được giáo dục giúp đỡ, 518 đảng viên vi phạm các quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương hoặc những điều đảng viên, cán bộ, công chức không được làm hoặc có uy tín thấp trong đơn vị, nơi cư trú mà cấp ủy có thẩm quyền đã kết luận, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và tổ chức đảng nơi sinh hoạt.

Công tác rà soát, phát hiện, giáo dục, giúp đỡ, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp ủy đảng đã nghiêm túc triển khai phổ biến, quán triệt kịp thời, đầy đủ tới cán bộ, đảng viên những nội dung Chỉ thị số 28-CT/TW, Hướng dẫn số 02-HD/BTCTW, Hướng dẫn số 03-HD/BTCTU; nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên về tầm quan trọng của nhiệm vụ xây đội ngũ đảng viên có chuyển biến mạnh mẽ, giúp đảng viên tự soi, tự sửa, nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình, đề ra các giải pháp khắc phục, góp phần ngăn ngừa các vi phạm. Việc thực hiện đảm bảo theo quy trình, thể hiện tính công tâm, khách quan, phát huy tính dân chủ, thực hiện rà soát đúng đối tượng, không nể nang, né tránh và được các chi bộ, cấp ủy biểu quyết thống nhất. Qua rà soát, sàng lọc không những phát hiện những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng mà còn phát hiện những đảng viên có ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống và chấp hành nghiêm những điều đảng viên không được làm, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để nêu gương, nhân rộng, từ đó xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ và ý thức tổ chức, kỷ luật trong Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần quản lý đảng viên và nâng cao chất lượng sinh hoạt và hoạt động của chi bộ.

Việc thực hiện các quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên và công nhận đảng viên chính thức đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định; việc giao nhiệm vụ và phân công công tác cho đảng viên được các tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc, làm tốt công tác theo dõi, quản lý đảng viên, qua đó làm cơ sở để đánh giá, xếp loại đảng viên cuối năm. Việc xét miễn sinh hoạt đảng cho đảng viên được thực hiện đúng đối tượng, nguyên tắc, nguyện vọng của đảng viên. Công tác giới thiệu đảng viên chuyển sinh hoạt đảng và tiếp nhận sinh hoạt đảng, sự phối hợp giữa cấp ủy nơi đảng viên chuyển đi, chuyển đến được thực hiện đầy đủ, đảm bảo đúng quy định. Công tác quản lý hồ sơ chặt chẽ, lưu trữ bảo quản hồ sơ đảng viên được thực hiện tốt. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được được chú trọng, tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. Lê Trang

 

[1] Chỉ thị số 14-CT/TU, ngày 15/01/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc tăng cường công tác phát triển đảng viên ở địa bàn, lĩnh vực còn khó khăn và ít đảng viên; Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 20/11/2014 và Quyết định số 399-QĐ/TU, ngày 18/12/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển đảng viên trong doanh nghiệp; Quy định số 28-QĐ/TU, ngày 25/4/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý”, Quy định số 29-QĐi/TU, ngày 24/6/2019 về chế độ dự sinh hoạt chi bộ khu dân cư đối với Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; Quy định số 31-QĐ/TU, ngày 17/7/2019 “về tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ” (nay là Quy định số 1028-QĐ/TU, ngày 05/42023), Chỉ thị số 05-CT/TU, ngày 07/5/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong tình hình mới; Công văn số 1237-CV/TU, ngày 22/8/2023 về “đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong đoàn viên ở khu dân cư và trường THPT”,...

[2] Năm 2020 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm tỷ lệ 94,6%, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 0.9%; năm 2021 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm tỷ lệ 93,8%, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 0,92%; năm 2022 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm tỷ lệ 94,7%, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 0,8%; năm 2023 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên chiếm tỷ lệ 95,3%, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ 0,8%.

14 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Tin tổng hợp

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 903
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 903
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87005159