Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền ngày càng quyết liệt. Sự tham gia của cả hệ thống chính trị ngày càng hiệu quả. Quy mô mạng lưới trường lớp từng bước được sắp xếp, mở rộng cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý ngày càng được bổ sung về số lượng; tỷ lệ chuẩn hóa và trên chuẩn ngày càng cao. Công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên theo các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp đã được triển khai thường xuyên, nghiêm túc. Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định; chất lượng giáo dục mũi nhọn có nhiều khởi sắc; số học sinh đạt giải cao tại các cuộc thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế ngày càng nhiều; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt cao. Nhiều chỉ tiêu đề ra tại Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đạt và vượt.
Bên cạnh những kết quả quan trọng, quá trình thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chương trình hành động của Tinh uỷ thực hiện Nghị quyết đã bộc lộ một số khó khăn, thách thức: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở có lúc còn chưa chủ động, sáng tạo, quyết liệt; việc phát triển quy mô chưa gắn liền với chất lượng giáo dục, đào tạo. Theo Luật Giáo dục năm 2019, số lượng giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ đào tạo vẫn còn tương đối cao[1]. Cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học của nhiều cơ sở giáo dục còn thiếu, bất cập, nhất là ở các huyện miền núi. Công tác xã hội hóa tuy có bước chuyển biến nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục. Công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS chưa đạt yêu cầu đề ra; Công tác tuyển sinh của các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng khó; chất lượng ngày càng thấp; số sinh viên sau khi ra trường chưa có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo còn nhiều. Chất lượng đào tạo nghề nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như yêu cầu của thị trường lao động. Một số cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư phát triển giáo dục đào tạo. Chính sách thu hút sinh viên, giáo viên giỏi về công tác tại tỉnh hiệu quả chưa cao.
Đề tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, thiết nghĩ:
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức học tập, nghiên cứu quán triệt nghiêm túc nội dung Kết luận số 91-KL/TW và các chủ trương, định hướng mới sắp tới của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV; làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh hiểu rõ quan điểm, mục tiêu, chủ trương, giải pháp của Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; nhận thức sâu sắc đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt sâu rộng và hiệu quả hơn về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đội ngũ nhà giáo nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện, tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân.
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên. Trong đó, tổ chức triển khai hiệu quả chương trình giáo dục mầm non mới với nội dung và phương pháp tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tiễn; từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3-4 tuổi theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo; quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập. Nâng cao năng lực quản trị nhà trường, nghiên cứu triển khai khi điều kiện cho phép các mô hình trường học mới như trường học số, trường học thông minh, trường học hạnh phúc. Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới, tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người dạy và người học; phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, nghiên cứu triển khai mô hình lớp học để nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn đối với miền núi. Phát triển giáo dục thường xuyên đa dạng về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Nâng tỷ lệ người biết chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam theo tinh thần Chỉ thị số 24-CT/TU, ngày 03/5/2019, Ban Thường vụ Tỉnh ủy “Về việc tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh, sinh viên”; Chương trình hành động số 13-CTHĐ/TU, ngày 15/01/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Xây dựng các chuyên đề giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ bản thân, phòng chống xâm hại, bạo lực học đường, lồng ghép trong các hoạt động giáo dục, hoạt động đoàn, hội, đội; có kế hoạch, giải pháp cụ thể, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm văn hóa độc hại, thông tin sai trái tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ, nhất là qua các trang xã hội, trang web phản động, đồi trụy. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hoá học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tăng cường công tác tư vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp; tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục học sinh, sinh viên.
Ba là, từng bước chuẩn hoá, hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học các cấp học, ngành học. Tiếp tục phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường lao động, nhất là các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn..., chú trọng cả số lượng, cơ cấu, chất lượng đào tạo, quan tâm công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất; tăng cường định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu niên ngay từ bậc học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng, tăng số lượng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp; thực hiện đào tạo nghề, dạy văn hoá, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.Chú trọng đào tạo nghề gắn với việc làm sau khi đào tạo.
Các cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh cần chủ động xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ; gắn kết chặt chẽ các cơ sở đào tạo, nghiên cứu với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế khuyến khích học sinh, sinh viên, học viên tham gia nghiên cứu, ứng dụng khoa học. Khuyến khích các trường cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề liên kết với các cơ sở giáo dục và đào tạo có uy tín trong nước và nước ngoài trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng công nghệ mới theo hướng thiết thực, hiệu quả đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho các dự án đầu tư và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bốn là, tiếp tục triển khai hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời. Phấn đấu để sớm thành lập Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật (trực thuộc Đại học Huế) trên cơ sở hợp nhất Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị với Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị; có chính sách hỗ trợ, thu hút hình thành trường đào tạo nghề mang tầm khu vực. Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các trường mầm non, phổ thông, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu mới. Đẩy mạnh các hoạt động chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo và dạy nghề, theo hướng: Phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh, giáo dục cá nhân hóa, giáo dục sáng tạo, giáo dục thích ứng với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo; đồng thời, trang bị cho học sinh, sinh viên các kỹ năng thiết yếu để thích ứng học tập, làm việc hiệu quả, an toàn trong không gian số.
Năm là, phát triển nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; thường xuyên rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đảm bảo sự cân đối, hợp lý về số lượng, chất lượng giữa các cấp học, ngành học, giữa các vùng miền trên phạm vi toàn tỉnh. Từng bước giải quyết tình trạng mất cân đối về đội ngũ giáo viên ở các ngành học, cấp học trên địa bàn tỉnh. Quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo ở từng cấp học, ngành học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành liên quan. Làm tốt công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp của ngành giáo dục theo hướng công khai, minh bạch đối với từng vị trí việc làm. Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Tiếp tục thực hiện Đề án Luân chuyển giáo viên vùng khó để đảm bảo công bằng trong giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Sáu là, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Đảm bảo ngân sách nhà nước chi cho giáo dục - đào tạo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh bổ sung cơ chế chính sách xã hội hóa để cùng với ngân sách Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất trường lớp và trang thiết bị dạy học; hỗ trợ các hoạt động dạy và học.
Bảy là, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Duy trì, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học trong việc thực hiện các chương trình ký kết giữa Quảng Trị với một số tỉnh của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; của Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị với một số trường đại học và cao đẳng của Vương quốc Thái Lan và các quốc gia khác. Thực hiện có hiệu quả cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tại Quảng Trị. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo trên địa bàn tỉnh đi học tập kinh nghiệm phát triển giáo dục và đào tạo tại một số nước có nền giáo dục phát triển. Lệ Thu
[1] Cụ thể: 1.069 giáo viên chưa đạt chuẩn (Mầm non: 145 giáo viên, tiểu học: 696 GV và THCS: 228 GV) chiếm tỷ lệ 10,26%. Trong đó, số giáo viên phải tham gia đào tạo nâng chuẩn theo Nghị định số 71/2020/NĐ-CP: 916 giáo viên; số giáo viên đã tham gia đào tạo từ khi Luật Giáo dục 2019 có hiệu lực là: 611 giáo viên; số giáo viên còn lại phải tham gia đào tạo nâng chuẩn theo Nghị định số 71/2020/NĐ-CP là: 305 giáo viên (trong đó đang đào tạo theo Nghị định số 71/2020/NĐ-CP là: 57 giáo viên).