Hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, diễn biến nhanh, khó đoán định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ gia tăng, khó kiểm soát. Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng xung đột. Trong nước, “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự xuống cấp về các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống; những mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội sẽ còn diễn biến phức tạp; phân cực giàu - nghèo có xu hướng ngày càng gia tăng”, nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi, sẽ trở thành nhân tố trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới; chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, ảnh hưởng đến sức mạnh tổng hợp của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước bối cảnh, tình hình mới, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân
- Về mục tiêu: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; không ngừng nâng cao sức mạnh phòng thủ đất nước, ngăn ngừa, phòng, chống, sẵn sàng ứng phó hiệu quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Về quan điểm: (i) Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là quan điểm lớn, nhất quán, chủ đạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng đề ra đường lối và quyết định các vấn đề liên quan đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước quản lý, điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; (ii) Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế. Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, hiện đại, không ngừng tăng cường tiềm lực đất nước; đặc biệt coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, văn hóa; xây dựng cơ sở chính trị - xã hội; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước; tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; khai thác tối đa và tận dụng có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ sở vật chất kỹ thuật của cả nước, của quân đội; đồng thời, tranh thủ sự hợp tác của các tổ chức quốc tế, khu vực và của các nước; sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực từ bên ngoài và các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; (iii) Xây dựng nền quốc phòng toàn dân bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản trong xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nắm vững mục tiêu phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc... Xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang là nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; (iv) Ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Đây là quan điểm chỉ đạo bảo đảm sự chủ động trong các tình huống chiến lược, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Chủ động phòng ngừa, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị tạo sức mạnh “nội lực” bảo vệ và giữ vững bên trong là chính; chủ động, tích cực đẩy mạnh đối ngoại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để tạo sức mạnh “ngoại lực” bảo đảm quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố, nhất là các nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chủ động, tích cực ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh là một trong các nhiệm vụ quốc phòng trọng yếu trong thời bình; nhằm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc tối ưu là bảo vệ được chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa và các lợi ích quốc gia - dân tộc. Xây dựng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... nhằm triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh; đồng thời, chuẩn bị đầy đủ về tiềm lực, lực lượng, thế trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước do toàn thể nhân dân thực hiện, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Xây dựng ngay từ thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng mọi hình thái chiến tranh của kẻ thù trong mọi tình huống.
- Về nội dung:
Một là, xây dựng tiềm lực quốc phòng, tập trung vào những nội dung sau: (i) Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần. Tập trung xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tinh thần cảnh giác cách mạng; xây dựng nền văn hóa, các giá trị đạo đức; tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng cho lực lượng vũ trang và toàn dân; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ các cấp. Giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước; phát huy dân chủ rộng rãi, công bằng, văn minh; tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; chủ động ngăn ngừa, phòng, chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; (ii) Xây dựng tiềm lực kinh tế. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng; kết hợp từ chiến lược đến quy hoạch, kế hoạch của quốc gia, ngành nghề, vùng, miền. Phát huy kinh tế nội lực, kinh tế số, tăng cường dự trữ cơ sở vật chất, đầu tư có trọng điểm cho quốc phòng, nhất là việc đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển đổi số của nền kinh tế với xây dựng hạ tầng, chuyển đổi số của nền quốc phòng toàn dân. Phát huy thế mạnh kinh tế của từng vùng, miền, địa phương và liên kết kinh tế giữa các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế. Phát triển kinh tế gắn với coi trọng bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng thủ dân sự, tăng cường củng cố quốc phòng. Nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng trên một số vùng chiến lược, biên giới, biển, đảo. Phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị, sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược cho quân đội, dân quân tự vệ...; (iii) Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ. Kết hợp phát triển khoa học - công nghệ quốc gia với xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ quốc phòng. Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ mới, hiện đại và công nghệ số trong sản xuất, bảo đảm vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật; khoa học quân sự; nghệ thuật quân sự, tổng kết chiến tranh... Đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học, kỹ thuật cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng. Mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đáp ứng phát triển khoa học - công nghệ quốc gia, khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng; (iv) Xây dựng tiềm lực quân sự. Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng dự bị động viên hùng hậu; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình xây dựng tiềm lực quân sự; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí, trang bị, phương tiện cho các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân. Gắn xây dựng tiềm lực quân sự với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng các tiềm lực khác bảo đảm huy động tạo thành sức mạnh quân sự, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng lực lượng quốc phòng. Nền quốc phòng toàn dân Việt Nam dựa vào sức mạnh tổng hợp, toàn diện của quốc gia, dân tộc, nên lực lượng quốc phòng bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, cần tập trung xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; trong đó trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển, đảo; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cả trong thời bình và thời chiến.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Cần tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc thành một thể thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quy hoạch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác; kết hợp chặt chẽ giữa phân vùng kinh tế với phân vùng chiến lược quốc phòng và xây dựng hậu phương chiến lược. Xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc. Thu Thủy (nguồn Ban TGTW)