Ảnh minh họa. (Nguồn: M.P)
Nhiều lợi ích mang ý nghĩa cộng đồng
Theo đánh giá của các chuyên gia, việc ứng dụng công nghệ thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công không chỉ mang lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng, đơn vị cung ứng dịch vụ công mà còn ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng xã hội.
Tháng 2 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 241/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội. Trong đó, Chính phủ xác định rõ hai mục tiêu là phấn đấu đến năm 2020 đạt được 80% giao dịch nộp thuế tại các thành phố trực thuộc trung ương, trực thuộc tỉnh được thực hiện qua ngân hàng và 70% công ty điện lực, công ty nước chấp nhận thanh toán hóa đơn tiền điện, nước qua ngân hàng.
Theo TS. Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, khi ứng dụng thanh toán qua ngân hàng với các dịch vụ công, người dân sẽ có cơ hội tiếp cận các hình thức thanh toán hiện đại mà không phải dùng tiền mặt để thực hiện các giao dịch thu, nộp thuế, thu phí cầu đường, nhận tiền bảo hiểm xã hội, nộp học phí, viện phí với nhiều hình thức thanh toán khác nhau: thanh toán trực tuyến, thanh toán trên ứng dụng điện thoại di động, thanh toán không tiếp xúc, thanh toán trường gần trên di động và các dịch vụ thanh toán hiện đại khác. Đề án là dấu mốc quan trọng để xóa bỏ thói quen dùng tiền mặt hàng ngày trong lưu thông của xã hội và có ý nghĩa rất quan trọng trong cộng đồng về thúc đẩy thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng.
Cụ thể, đối với tổng quan nền kinh tế sẽ hạn chế một khối lượng lớn tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền như chi phí in ấn, kiểm đếm, chuyên chở, bảo quản và huỷ bỏ tiền cũ, rách... Bên cạnh đó, tăng sự lưu chuyển tiền tệ hỗ trợ nền kinh tế thông qua việc rút ngắn thời gian luân chuyển vốn qua các hệ thống thanh toán, giảm thời gian vốn trôi nổi, thúc đẩy chu chuyển vốn, qua đó góp phần tăng hiệu suất sử dụng vốn cải thiện tính hiệu quả, tăng thêm sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đồng thời, thúc đẩy sự ra đời của các công ty sáng tạo, khởi nghiệp trong lĩnh vực thanh toán, tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội cũng như mang lại những dịch vụ gia tăng như phân tích hành vi tiêu dùng qua dữ liệu chi tiêu bằng thẻ, đối thoại trực tiếp với khách hàng, từ đó xây dựng các chương trình bán hàng, khuyến mãi nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh nói chung. Qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và thu các khoản thuế, phí nhằm giúp tăng cường sự minh bạch và thuận lợi trong thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Còn đối với các cơ quan quản lý nhà nước sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và minh bạch các giao dịch tài chính tại các đơn vị cung cấp dịch vụ công. Cùng với đó, tiết kiệm ngân sách nhà nước trong việc đầu tư cơ sở bàn quầy giao dịch thu tiền cũng như việc bố trí nhân sự tại các đơn vị. Góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính thông qua việc tiết giảm thời gian, quy trình thực hiện thanh toán đối với dịch vụ công.
Đặc biệt, đối với hệ thống ngân hàng, việc đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công là cơ hội để ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng phạm vi cung ứng dịch vụ, đối tượng khách hàng phục vụ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng khả năng huy động, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Thông qua việc cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ thanh toán dịch vụ công, ngân hàng cũng sẽ có thêm cơ hội cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, giá trị gia tăng khác cho khách hàng, từ đó tạo tiền đề cho việc phát triển doanh thu từ việc cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, thúc đẩy ngân hàng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong cung ứng sản phẩm dịch vụ, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, dịch vụ thanh toán ngân hàng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng dịch vụ.
Riêng đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công và người bán hàng hóa và dịch vụ bán lẻ sẽ được sử dụng dịch vụ thanh toán với nhiều tính năng và chất lượng tốt hơn, tính ổn định và chính xác cao và an toàn. Điều này giúp quản lý hiệu quả và chính xác nguồn thu chi và dữ liệu thu chi bằng việc giao dịch qua hệ thống ngân hàng. Nhờ đó, tăng doanh số tiêu thụ và lợi nhuận từ việc gia tăng nhu cầu người mua nhờ sự thuận tiện trong các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng.
Riêng đối với người dân, việc sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với các dịch vụ công giúp tiết giảm thời gian, tiết kiệm các chi phí, đặc biệt chi phí di chuyển an toàn, nhanh chóng, thuận tiện và tránh được các rủi ro có thể phát sinh liên quan đến sử dụng tiền mặt.
Vẫn còn những thách thức
Theo đánh giá của các chuyên gia, mặc dù có nhiều tiện ích như vậy nhưng việc thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công vẫn chưa phát triển như kỳ vọng.
Theo Ngân hàng Nhà nước, giao dịch thanh toán dịch vụ công qua ngân hàng chưa nhiều, đặc biệt là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa. Việc kết nối giữa ngân hàng với các tổ chức cung ứng dịch vụ công vẫn còn có những khó khăn, tốc độ triển khai chậm. Khả năng trao đổi, chia sẻ thông tin, truy xuất dữ liệu liên quan đến các khoản thanh toán phí dịch vụ công còn hạn chế.
Bên cạnh đó, trên thực tế có một số đối tượng khách hàng cao tuổi gặp khó khăn trong việc sử dụng các dịch vụ hiện đại; số lượng máy ATM chưa nhiều, đặc biệt vùng sâu, vùng xa. Việc quản lý người hưởng gặp khó khăn, như không nắm được đầy đủ thông tin người hưởng, báo giảm chưa kịp thời, thu hồi số tiền chi trả rất khó khăn.
Một thực tế đơn cử như trong việc thu tiền mặt trong bệnh viện. đại diện một số ngân hàng thương mại cho rằng vẫn còn một số vương mắc liên quan đến vấn đề cơ chế và văn bản pháp lý. Ví dụ như khi ngân hàng kết hợp thu tiền mặt trong bệnh viện, mỗi bệnh nhân đều có thẻ để thanh toán. Tuy nhiên, theo quy định phát hành thẻ, chỉ quy định mối quan hệ giữa ngân hàng phát hành thẻ và bệnh nhân; không quy định đơn vị trung gian phối hợp là bệnh viện nên khi triển khai ở bệnh viện nào, ngân hàng lại phải có một quầy giao dịch tại đó điều này cũng là một trở ngại.
Ngoài ra, những hạn chế trên là do cơ chế chính sách và hạ tầng cung ứng dịch vụ thanh toán của ngân hàng chưa phù hợp và đảm bảo. Hạ tầng công nghệ thông tin, thanh toán ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa tốt. Bên cạnh đó là tâm lý ngại thay đổi phương thức thanh toán của một bộ phận khách hàng và thói quen dùng tiền mặt của người dân.
Cần những giải pháp đồng bộ
Thời gian qua ngành ngân hàng được đánh giá là đã chú trọng trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán, ứng dụng công nghệ cao, gia tăng tiện ích cho khách hàng, tạo niềm tin cho người dân. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, viễn thông và tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên thế giới có xu hướng phát triển mạnh, ngành Ngân hàng thời gian tới phải tiếp tục cập nhật và áp dụng các biện pháp tiên tiến bảo đảm an ninh, an toàn cho các hệ thống thanh toán, các sản phẩm dịch vụ thanh toán; đồng thời tăng cường sự giám sát của cơ quan quản lý, sự phối hợp giữa ngân hàng với các đơn vị liên quan trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn.
Cùng với đó, NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh chỉ đạo hoạt động kiểm tra, rà soát hệ thống máy ATM và thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán (POS); tăng cường hệ thống đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch qua ATM, POS và các giải pháp xác thực khách hàng để phòng, chống các hành vi gian lận; chủ động theo dõi và xử lý kịp thời những vướng mắc, sai sót; đồng thời có biện pháp khuyến cáo, hướng dẫn khách hàng phòng tránh các rủi ro, thủ đoạn gian lận.
Bên cạnh đó, theo các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách về thanh toán qua ngân hàng tiếp tục thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh an toàn trong thanh toán.
Đặc biêt, cũng cần triển khai ứng dụng thêm các hình thức, phương thức thanh toán qua ngân hàng tiên tiến, hiện đại phù hợp với đặc thù thanh toán của mỗi loại hình dịch vụ công. Đồng thời mở rộng hợp tác giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ công với các ngân hàng, tổ chức cung ứng giải pháp thanh toán; đẩy nhanh khả năng kết nối, trao đổi thông tin dữ liệu giữa đơn vị cung ứng dịch vụ công với ngân hàng.
Ngoài ra, cần tăng cường sự chỉ đạo của các Bộ, ban, ngành và Ủy ban nhân dân trong việc triển khai thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục tài chính…/.
Minh Phương