Thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu 

(ĐCSVN) – Nếu các khó khăn, vướng mắc về xử lý nợ xấu không được tháo gỡ, thì sẽ không thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp, khó giảm được lãi suất cho vay, qua đó ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và tăng trưởng GDP của nền kinh tế...

Chiều 22/5, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 3, Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe Tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Nợ xấu, nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu có nguy cơ tăng trở lại

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, sau gần 4 năm triển khai thực hiện Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam” (VAMC), quá trình xử lý nợ xấu đến nay còn nhiều khó khăn, vướng mắc chưa được tháo gỡ. Nợ xấu, nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu có nguy cơ tăng trở lại…

Quá trình tổng kết cho thấy, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do cơ chế, chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện, chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của các TCTD, quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả của việc xử lý nợ xấu.

Nếu những khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu của TCTD, VAMC không được xử lý thì có thể dẫn đến những bất cập như: Không khuyến khích, huy động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia xử lý nợ xấu của các TCTD. Bên cạnh đó, không có cơ chế, chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ VAMC, TCTD xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm.

Mặt khác, những bất cập, thiếu hụt trong khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm nếu không được xử lý kịp thời sẽ kéo dài thời gian xử lý nợ xấu, làm ảnh hưởng tới niềm tin đối với ngành ngân hàng, ảnh hưởng không tốt đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD và tạo ra nguy cơ rủi ro lan truyền.

“Nếu các khó khăn, vướng mắc về xử lý nợ xấu không được tháo gỡ, thì sẽ không thể khơi thông được nguồn vốn của hệ thống ngân hàng, hạn chế quyền tiếp cận vốn của doanh nghiệp, khó giảm được lãi suất cho vay, qua đó ảnh hưởng đến mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và tăng trưởng GDP của nền kinh tế”, Thống đốc nhấn mạnh.

 Ngoài ra, quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm giai đoạn vừa qua cho thấy, khó khăn, vướng mắc của quá trình xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm còn do cách hiểu và thực thi pháp luật chưa thống nhất.

Vì vậy, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý xử lý nợ xấu theo hình thức ban hành Nghị quyết của Quốc hội là rất cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, cũng như đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn.

Tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán nợ

Dự thảo Nghị quyết gồm 18 Điều quy định về việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu); quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo đó, Dự thảo Nghị quyết quy định cụ thể về khái niệm nợ xấu để xác định phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết. Cụ thể, “nợ xấu là các khoản nợ không có khả năng thu hồi hoặc được đánh giá không có khả năng thu hồi một phần hoặc toàn bộ nợ gốc, lãi khi đến hạn thanh toán, được phân loại vào nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có nguy cơ mất vốn”.

Đồng thời, dự thảo Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC phải xác nhận bằng văn bản một khoản nợ cụ thể là nợ xấu khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo cơ sở cho các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án, cơ quan thuế, …) áp dụng các chính sách tại Nghị quyết.

Về quyền chủ nợ và phát triển thị trường mua bán nợ, Thống đốc Lê Minh Hưng cho hay, kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, để xử lý nợ xấu hiệu quả, việc tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ và bảo vệ quyền hợp pháp, chính đáng của chủ nợ là các điều kiện quan trọng nhất. Do vậy, dự thảo Nghị quyết đã có những quy định cần thiết về bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp, tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán nợ như: TCTD, VAMC được bán khoản nợ, tài sản bảo đảm theo giá trị thị trường, kể cả bán khoản nợ xấu thấp hơn giá trị ghi sổ; VAMC được mua cả nợ xấu hạch toán trong bảng và ngoài bảng; chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang thành khoản nợ mua theo giá trị thị trường; VAMC được bán nợ cho mọi tổ chức, cá nhân...

Để đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản bảo đảm, bảo vệ quyền hợp pháp, chính đáng của chủ nợ, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, tăng cường kỷ luật hợp đồng, nhưng không lạm quyền, dự thảo Nghị quyết quy định TCTD được thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ khi có đầy đủ các điều kiện sau: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận; Có thỏa thuận về quyền thu giữ TSBĐ trong thỏa thuận giao dịch bảo đảm (để bảo đảm việc thu giữ tài sản bảo đảm là thỏa thuận, tự do ý chí của các bên); Giao dịch bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật (bảo đảm quyền của TCTD đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba); Trách nhiệm thông báo của bên nhận bảo đảm; Sự tham gia của cơ quan nhà nước (để bảo đảm TCTD, VAMC không lạm quyền).

Đồng thời dự thảo Nghị quyết cũng bổ sung nhiều quy định tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về xử lý tài sản bảo đảm của TCTD như: Quy định về điều kiện chuyển nhượng tài sản bảo đảm là dự án bất động sản đảm bảo xử lý tình trạng dự án treo, bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là người mua nhà tại dự án bất động sản; Quy định về tài sản của người phải thi hành án đang là tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của bên nhận bảo đảm; Quy định về số tiền thu được xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm (nghĩa vụ trả nợ cho TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC) trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế; Quy định về việc TCTD được bán nợ có tài sản bảo đảm đang bị kê biên...

Để tạo lập, phát triển thị trường mua bán nợ, khuyến khích nhà đầu tư tham gia xử lý nợ xấu, dự thảo Nghị quyết đã quy định: Trách nhiệm thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm; Miễn các loại thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản liên quan đến việc sáp nhập, hợp nhất, chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của TCTD được kiểm soát đặc biệt; Người được thi hành án là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VAMC được miễn phí thi hành án dân sự khi thu hồi nợ.

Ngoài ra, dự thảo Nghị quyết cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, các bộ, ngành liên quan để bảo đảm việc triển khai thực hiện Nghị quyết có hiệu quả trên thực tế...

Tính đến 31/12/2016, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý chiếm 5,8% trên tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế; nếu tính cả nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu thì tỷ lệ này sẽ là 10,08% trên tổng dư nợ cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế.

Bên cạnh đó, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự liên quan đến thu hồi nợ tín dụng, ngân hàng còn hạn chế, nợ tồn đọng tại khâu thi hành án dân sự tính đến 31/03/2017 là 17.184 việc, với số tiền còn phải thi hành án khoảng 65.489 tỷ đồng.

Thu Hằng

468 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 478
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 478
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 88161535