Hình ảnh tại Diễn đàn (Ảnh: M.P)

Ngày 8/12, tại Hà Nội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức diễn đàn với chủ đề: “Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19: Thu hẹp khoảng cách từ chính sách đến thực thi”. 

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, đến tháng 11, có trên 15.000 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chỉ tăng 3,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, con số doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động và rời khỏi thị trường đã lên tới 44.000 doanh nghiệp và tăng đến 60% so với cùng kỳ. Như vậy trung bình mỗi tháng, Việt Nam đã có trên 5.000 doanh nghiệp phải rời khỏi thị trường - đây là con số cao kỷ lục từ trước tới nay, kéo theo nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến công ăn việc làm, thu nhập của người lao động. 

Chính vì thế, thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách chính xác và kịp thời trong một thời gian ngắn, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn và khôi phục hoạt động. Các bộ ngành, địa phương đã đưa ra nhiều văn bản hỗ trợ về tín dụng, thuế, lệ phí, tiền thuê đất, giá dịch vụ, lao động, bảo hiểm xã hội… Có một số gói cơ bản như: Gói hỗ trợ 250.000 tỷ đồng về hỗ trợ tín dụng; 62.000 tỷ đồng về an sinh xã hội, 16.000 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho người lao động… Một bộ phận các chính sách đã phát huy tác dụng tốt, nhưng cũng còn bộ phận chính sách được thiết kế chưa thật sự bám sát thực tiễn của cuộc sống. Từ đó kéo theo các thủ tục hành chính còn phiền hà, các tiêu chí, định mức, đối tượng chưa rõ ràng, vì vậy chưa đáp ứng được kỳ vọng cũng như nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp.

Ông Lê Việt Cường, Giám đốc Hợp tác xã Vụn Art, ở Hà Đông cho biết: Về chính sách thì chúng tôi biết các chủ trương đó, nhưng đến nay chúng tôi vẫn chưa tiếp cận được nguồn vốn và các gói hỗ trợ đó. Tôi cho rằng là các vướng mắc về thủ tục pháp lý nó là rào cản rất lớn để cho các doanh nghiệp siêu nhỏ như chúng tôi tiếp cận. Việc xác nhận của cơ quan chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp đóng cũng là một rào cản, ở Việt Nam thì câu chuyện là đăng ký kinh doanh ở đây, nhưng người ta sản xuất nơi khác, khi đó địa phương đó, UBND phường, sẽ không bao giờ ta xác nhận cho cả vì sợ trách nhiệm, dẫn đến chúng tôi không thể đầy đủ điều kiện xác nhận để nhận được những gói hỗ trợ như vậy. 

Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, qua điều tra các doanh nghiệp, có những giải pháp doanh nghiệp đánh giá cao như gia hạn tiền thuế đất…. nhưng cũng có chính sách khó khăn như việc tiếp cận để vay gói 16.000 tỷ đồng để trả tiền lương cho lao động. Dù chính sách tốt, nhưng tính thực thi thì nhiều vấn đề còn đặt ra, đã có nhiều doanh nghiệp nghe nói về chính sách trên đài báo, các hội thảo, nhưng theo ông Tuấn, hiện doanh nghiệp biết thông tin và hưởng lợi từ chính sách còn rất ít, nhiều doanh nghiệp mới chỉ nghe được “loáng thoáng” chưa kỹ càng.

Cũng về vấn đề này, TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI nhận xét, việc ban hành các chính sách trên đã kịp thời cổ vũ, động viên tinh thần đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Song, việc tiếp cận các chính sách hỗ trợ của doanh nghiệp chưa được như kỳ vọng.

Theo VCCI, như gói hỗ trợ 16.000 tỷ đồng của Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách để cho các doanh nghiệp vay để hỗ trợ tiền lương cho công nhân. Đến cuối tháng 11 mới có 75 doanh nghiệp vay được gói hỗ trợ, kết quả này có được chỉ sau khi Chính phủ ban hành quyết định sửa đổi các điều kiện được vay vốn.

Theo số liệu khảo sát từ Đại học Kinh tế quốc dân công bố tháng 10/2020 thì tới 80% doanh nghiệp thuộc diện điều tra chưa nhận được gói hỗ trợ của Chính phủ và một tỷ lệ khá cao (gần 30%) không biết về các chính sách này.

Từ những kết quả này, Chủ tịch VCCI cho rằng, điều cần phải rút kinh nghiệm ở đây đó là vấn đề thiết kế chính sách và thực thi chính sách đang có khoảng cách quá lớn. 

Ông Vũ Tiến Lộc khuyến nghị, cần rà soát, đánh giá lại một cách độc lập về hiệu quả thực thi của các chính sách hỗ trợ, cũng như tham vấn ý kiến của đối tượng bị tác động để đảm bảo tính khả thi của chính sách được ban hành. Cần phải tăng cường nỗ lực hợp tác giữa cơ quan Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp trong cả việc định hình các chính sách và tổ chức thực thi chính sách./.
 

 
 
Minh Phương