Hội thảo "Công cụ sàng lọc dự án đầu tư tại Việt Nam" do VCCI phối hợp với UNDP tổ chức - Ảnh:VGP/HT
Đây là nội dung được trao đổi tại hội thảo "Công cụ sàng lọc dự án đầu tư tại Việt Nam do VCCI phối hợp với UNDP tổ chức ngày 16/11, tại Hà Nội.
FDI có đóng góp tích cực nhưng vẫn còn những dự án ‘không đáng có’
Theo số liệu thống kê, trải qua 35 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành, Việt Nam đã là điểm đến đầu tư hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, so với năm 1991 - thời điểm Việt Nam chỉ tiếp nhận 1,28 tỷ USD vốn đăng ký và 428,5 triệu USD vốn thực hiện, thì số vốn FDI đăng ký và giải ngân năm 2021 đã gấp lần lượt khoảng 30 lần về vốn đăng ký và 38 lần về vốn giải ngân so với năm 1991, dù năm 2021 là thời điểm Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đóng góp quan trọng vào tạo việc làm, thúc đẩy thương mại quốc tế, thúc đẩy liên kết cụm ngành, liên kết chuỗi giá trị và góp phần nâng cao năng suất lao động. Theo ước tính, giá trị xuất khẩu của khu vực FDI tương đương khoảng 72% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho biết, bên cạnh những đóng góp tích cực có các dự án FDI tồn tại nhiều hạn chế. Các cơ quan chức năng đã phát hiện những trường hợp DN FDI chuyển giá và trốn thuế tại Việt Nam. Một số DN khác phớt lờ các quy định về môi trường của pháp luật Việt Nam và kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội.
Theo kết quả thanh tra của Tổng cục Môi trường tại 28 tỉnh phía Bắc từ năm 2017 đến năm 2019, tỷ lệ DN FDI vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường tăng lên qua thời gian. Cụ thể, năm 2017 có 44,5% DN FDI vi phạm, năm 2018 là 56% và đến năm 2019 con số này là 68%.
Bên cạnh đó, tình trạng người lao động bị đối xử thiếu công bằng hoặc điều kiện kém cũng đã xảy ra tại một số DN FDI. Các số liệu thống kê cũng ghi nhận vấn đề đình công tập thể diễn ra thường xuyên hơn đối với các DN FDI so với các DN tư nhân Việt Nam.
Hơn nữa, theo nghiên cứu của VCCI, quy mô vốn trung bình một dự án FDI có xu hướng nhỏ lại. Chỉ khoảng 5% dự án sử dụng công nghệ cao, 80% có công nghệ trung bình, còn lại 14% là sử dụng công nghệ thấp. Mức độ nội địa hóa các sản phẩm mới đạt khoản 20-25%, thấp hơn so với các nước trong khu vực…
Dưới góc nhìn quốc tế, bà Ramla Khalidi, đại diện thường trú UNDP cho rằng, EU đang áp dụng bộ luật liên quan đến môi trường, con người. Nhật Bản cũng đang thực hiện thẩm định nhân quyền tại các DN. Ở Mỹ, hiện đang cấm nhập khẩu từ các DN có hành vi bóc lột sức lao động.
"Tất cả những yêu cầu trên sẽ thay đổi cách thức hoạt động của các DN trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Do vậy, Việt Nam cần định hướng thu hút FDI và các hoạt động kinh doanh phù hợp với thông lệ thế giới", bà Ramla Khalidi nói.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế VCCI đề nghị, các bộ, ngành liên quan cùng xây dựng, hoàn thiện và triển khai bộ công cụ này một cách chính thức trong công tác thẩm định dự án FDI - Ảnh: VGP/HT
Cần có ‘bộ lọc’ chi tiết, chất lượng
Các chuyên gia tại hội thảo khẳng định, Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề thu hút các dự án FDI có chất lượng.
Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị đã đặt nền tảng mới cho chiến lược thu hút FDI của Việt Nam, tạo cơ hội hướng tới các nguồn FDI chất lượng cao.
Chính phủ cũng đã có Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030, tận dụng cơ hội chuyển dịch vốn đầu tư, nhưng nhấn mạnh thu hút vốn FDI có chất lượng.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, khung khổ pháp lý cũng đã có những điều chỉnh nhằm tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng, ví dụ như Luật Đầu tư sửa đổi năm 2020 và nhiều luật chuyên ngành khác.
Các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thế hệ mới cũng tạo động lực cho Việt Nam hài hòa các quy định về tính minh bạch của luật pháp, về bảo vệ người lao động và phòng chống tham nhũng. Những điều này thúc đẩy các DN, cả DN trong nước và nước ngoài, thực hành kinh doanh có trách nhiệm hơn.
Trong khi đó, nhiều địa phương vẫn gặp khó khăn khi đánh giá các dự án FDI. Các cơ quan quản lý vẫn thiếu vắng những hướng dẫn chung hay những công cụ hỗ trợ việc sàng lọc, đánh giá, thẩm định dự án đầu tư ở các địa phương.
Ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, cần có thêm các tiêu chí để thu hút các dự án FDI có chất lượng từ các nhà đầu tư với định hướng kinh doanh có trách nhiệm.
VCCI và UNDP phối hợp phát triển một công cụ rà soát dự án đầu tư nước ngoài xin cấp phép tại Việt Nam. Đây là danh mục các yếu tố mà các địa phương cần đánh giá khi tiếp nhận hồ sơ xin cấp phép đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài.
Công cụ sẽ gồm: Các đánh giá bắt buộc về việc liệu dự án có tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư tại Việt Nam; các đánh giá bắt buộc về những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế, xã hội và môi trường; các tiêu chí khuyến khích DN tuân thủ dựa trên các thông lệ quốc tế và thực tiễn tốt về kinh doanh có trách nhiệm.
Mục tiêu của bộ công cụ là hỗ trợ chính quyền các địa phương trong công tác đánh giá, thẩm định mức độ đóng góp và tác động tiềm ẩn của các dự án FDI xin cấp phép đầu tư tại địa bàn; góp phần thúc đẩy thực hiện các chủ trương nêu ra tại Nghị quyết 50 của Bộ Chính trị và Chiến lược và định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới giai đoạn 2018-2030 của Chính Phủ.
Ông Nguyễn Văn Hưởng, Phó Giám đốc Sở KH&ĐT tỉnh Bắc Giang kỳ vọng, việc áp dụng công cụ sàng lọc dự án đầu tư tại Việt Nam sẽ góp phần thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo định hướng hợp tác có chọn lọc, nâng cao chất lượng, hiệu quả, trình độ công nghệ và bảo vệ môi trường.
"Bắc Giang rất tán thành và nhất trí cao việc ban hành Bộ công cụ sàng lọc dự án đầu tư tại Việt Nam do VCCI đang soạn thảo. Bộ công cụ này sẽ giúp cho Bắc Giang và các địa phương lựa chọn được các dự án đầu tư có chất lượng và có công nghệ tiên tiến hiện đại trong thời gian tới", ông Nguyễn Văn Hưởng nói.
Tại hội thảo, các luật sư cũng đánh giá cao mục tiêu của bộ tiêu chí, đồng thời, góp ý về một số tiêu chí chấm điểm chưa hợp lý, khả thi cần nghiên cứu sâu hơn để tiếp tục điều chỉnh. Các chuyên gia, nhà quản lý cũng có nhiều góp ý về bộ công cụ tiêu chí đánh giá các dự án FDI.
Bà Lại Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp quốc tế (Bộ Tư pháp) chia sẻ: Qua chứng kiến các vụ tranh chấp quốc tế xảy ra, rút ra kinh nghiệm rằng nếu như có sự sàng lọc tốt hơn ngay từ đầu, Việt Nam đã không để xảy ra tình trạng hợp tác với DN FDI chất lượng kém.
"Một số địa phương còn lúng túng, thẩm định không tốt, hoặc không nắm rõ quy định để từ chối đầu tư. Có DN FDI lừa hết nước này đến nước khác, tỉnh này đến tỉnh khác. Có những DN cam kết đầu tư hàng trăm triệu USD được một địa phương phê duyệt khi hồ sơ chủ yếu chỉ có giấy đề nghị vay tiền (bằng tiếng Anh) 200 triệu USD của một ngân hàng quốc tế, mà không rõ DN đó năng lực đến đâu, có vay được tiền không. Hoặc có nhà đầu tư có năng lực nhưng không thiện chí, đòi đủ thứ, đòi cả vượt trên quy định pháp luật, nếu không đồng ý thì kiện", bà Lại Thị Vân Anh nêu dẫn chứng.
Nhấn mạnh yếu tố pháp lý, đại diện Bộ Tư pháp cho rằng, đây là sự khởi đầu tốt, nhưng trong dài hạn cần xây dựng các nhóm tiêu chí ở đây không chỉ phải phát hiện vấn đề mà phải có tính khả thi cao, chắc chắn thực hiện được, tiến tới tích hợp với khuôn khổ quy định của pháp luật địa phương, DN bắt buộc phải tuân thủ. Sau khi hoàn tiện các tiêu chí chuẩn xác hơn, VCCI cần phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục chính thức hoá các quy định để đánh giá hiệu quả các dự án FDI.
Nên đưa ra một số tiêu chí tài chính, năng lực lịch sử pháp lý, thuế, lao động môi trường, ví dụ nhà đầu tư có "lý lịch" không tốt, từ đó địa phương có thông tin, căn cứ từ chối.
"Nếu nhà đầu tư thiện chí chờ thời gian dài thẩm định rõ ràng minh bạch hơn là rút ngắn thời gian. Việc rút ngắn số ngày vẫn chạy theo số lượng, không thực tế, vì một số địa phương phản ánh thời hạn cho phép địa phương xem xét cấp đăng ký hiện nay là quá gấp không đủ thời gian thẩm định", bà Lại Thị Vân Anh nói.
Khẳng định bộ công cụ này cần tiếp tục hoàn thiện, ông Đậu Anh Tuấn đề nghị, các bộ, ngành liên quan cùng xây dựng, hoàn thiện và triển khai bộ công cụ này một cách chính thức trong công tác thẩm định dự án FDI; tham mưu xây dựng khung khổ pháp lý cho việc thu hút các dự án đầu tư, kinh doanh có trách nhiệm.
Các nhà đầu tư cần tìm hiểu bộ công cụ để có kế hoạch chuẩn bị đáp ứng các yêu cầu bắt buộc theo quy định pháp luật; khuyến khích đáp ứng các tiêu chí về kinh doanh có trách nhiệm.
Còn nhiều việc phải làm để hoàn thiện "bộ lọc", lồng ghép các tiêu chí về thực hành kinh doanh có trách nhiệm mà các cơ quan thẩm định có thể sử dụng để chọn lọc ra các dự án chất lượng cao.
Huy Thắng