Thái Lan đang được biết đến với tốc độ đầu tư tăng cao vào Việt Nam (Ảnh: HNV)
Năm 2018 là năm kỷ niệm 30 năm thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn lại những thành tựu đã đạt được và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và của cả cộng đồng doanh nghiệp trong việc liên tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh mới thấy được rằng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, nhiều chính sách được cập nhật kịp thời, phù hợp, nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình thực thi đã được khắc phục và xử lý kịp thời. Từ đó, đã tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, góp phần thu hút ngày càng nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã ngày càng trưởng thành, lớn lên cùng đất nước, đông thêm về số lượng, mạnh lên về tiềm lực và là động lực quan trọng góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua liên tục tăng trưởng ở mức cao, GDP năm 2017 đạt 220 tỷ USD tăng gấp 8 lần so với năm 1997, phấn đấu đến 2020 GDP đạt khoảng 300 tỷ USD.
Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến nay, đã có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với khoảng 26.000 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký trên 326 tỷ USD và tổng vốn thực hiện đạt trên 180 tỷ USD. Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 20% GDP, trong đó 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và tạo ra 50% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp 72,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 3,6 triệu lao động trực tiếp và cho 5 - 6 triệu lao động gián tiếp.
Có thể thấy, khu vực đầu tư nước ngoài đã có những hiệu ứng lan tỏa đối với các lĩnh vực của nền kinh tế, thông qua việc tiếp cận công nghệ tiên tiến và chuẩn mực quốc tế trong quản trị doanh nghiệp, phát triển kỹ năng của lực lượng lao động, cũng như tạo ra nhiều việc làm trong các lĩnh vực của nền kinh tế… Tuy nhiên, sự liên kết giữa khu vực FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước cùng tham gia chuỗi giá trị chưa đạt như kỳ vọng, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và hoạt động chuyển giao công nghệ còn ở mức thấp.
Thực tế cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng nhanh nhờ đẩy mạnh xuất khẩu và duy trì được nguồn đầu tư ổn định từ bên ngoài. Chính phủ đang được tín nhiệm vì sự ổn định về kinh tế và kiềm chế nợ công. Tuy nhiên, còn nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến xu thế này như bên trong có thể xảy ra việc vỡ bong bóng bất động sản, gây hậu quả lên hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến nền kinh tế, còn bên ngoài thì sự bảo hộ ngày càng gia tăng của nhiều quốc gia và khu vực kinh tế cũng rất quan trọng đối với thương mại của Việt Nam. Do đó, lựa chọn đúng đắn không phải là bảo vệ thị trường nội địa mà cần tiếp tục là một trong những nước có nhiều nhất các hiệp định thương mại tự do, cần phê chuẩn các hiệp định đã ký và cải cách hệ thống luật pháp để tuân thủ các hiệp định này.
Với tư cách là cơ quan đại diện cộng đồng doanh nghiệp trong và nước ngoài, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) mới đây đã kiến nghị Chính phủ thực hiện các giải pháp nhằm cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh là biện pháp mà chúng ta luôn có thể chủ động thực hiện, luôn khả thi và ít tốn kém trong khi hiệu quả lại rất đáng kể, đặc biệt trong thúc đẩy xuất nhập khẩu cũng như tận dụng cơ hội mới về thương mại và đầu tư. Cụ thể, cộng đồng doanh nghiệp đề xuất Chính phủ tiếp tục chỉ đạo cương quyết thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là về thủ tục xuất nhập khẩu, cơ chế một cửa quốc gia và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Tăng cường các hành động thực thi các nghĩa vụ về tạo thuận lợi thương mại trong Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại của WTO và tận dụng tối đa cơ hội từ việc rà soát chuẩn bị phê chuẩn và thực thi CPTPP để tạo ra đột phá trong cải cách toàn diện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế theo các chuẩn mực mới.
Đồng thời, tận dụng triệt để các lợi thế xuất khẩu từ các FTAs là một trong những giải pháp để xuất khẩu Việt Nam tìm được con đường riêng, ổn định trong bối cảnh thương mại thế giới diễn biến phức tạp. Trong đó, tiến hành các thủ tục phê chuẩn Hiệp định CPTPP để Hiệp định này sớm có hiệu lực với Việt Nam và triển khai ngay công tác chuẩn bị thực hiện các cam kết trong Hiệp định, cả từ phía Chính phủ và doanh nghiệp, đặc biệt là cam kết về thể chế và hàng hóa (thuế quan, quy tắc xuất xứ) để doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các cơ hội của CPTPP ngay khi Hiệp định này có hiệu lực.
Đặc biệt, tiếp tục thúc đẩy ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU càng sớm càng tốt, song song với việc cố gắng cùng với các đối tác hoàn tất rà soát pháp lý đối với Hiệp định bảo hộ đầu tư để tiến tới ký kết, phê chuẩn. Ở khía cạnh này, cộng đồng doanh nghiệp cũng kêu gọi sự tham gia tích cực của Phái đoàn EU và các doanh nghiệp FDI EU tại Việt Nam cũng như tất cả các doanh nghiệp có thể được hưởng lợi từ các Hiệp định này cùng lên tiếng, phối hợp vận động để tiến trình ký kết và phê chuẩn các Hiệp định được đẩy nhanh càng sớm càng tốt. Thúc đẩy thực thi có hiệu quả các FTAs khác. Các hiệp định thương mại tự do đang mở ra cơ hội tốt cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu. Nhưng xu hướng nhập siêu đang ngày càng gia tăng với các thị trường Việt Nam đang có FTAs cho thấy Việt Nam chưa tận dụng tốt các cơ hội mở ra từ các hiệp định này như các đối tác thương mại của mình. Điều này đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực hơn để hướng dẫn, hỗ trợ và tiếp sức cho cộng đồng doanh nghiệp. Trước hết, phải rà soát và loại bỏ ngay các bất cập trong thực tiễn đang cản trở doanh nghiệp tận dụng các ưu đãi mở ra từ các FTAs, đặc biệt là phải cải cách nhanh hơn các thủ tục hành chính liên quan đến xuất nhập khẩu.
Trong khi đó, theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, để có thể tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước và các doanh nghiệp FDI thì các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần gia tăng năng lực và sức cạnh tranh để trở thành nhà cung ứng linh kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài, tức là tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là bước đi chủ động để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
Thiết nghĩ, để tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước đòi hỏi doanh nghiệp FDI phải chủ động tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam từng bước tham gia vào chuỗi giá trị, các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao năng lực quản lý, trình độ sản xuất, công nghệ kỹ thuật, chất lượng sản phẩm… Chính phủ phải có các biện pháp hỗ trợ để quá trình gắn kết được thuận lợi và hiệu quả.
Hơn nữa, trong thực thi pháp luật, nhiều cơ quan còn có cách hiểu và áp dụng luật không thống nhất do quy định của pháp luật chưa rõ ràng và năng lực cán bộ hạn chế, đặc biệt là vấn đề liên quan đến Luật chứng khoán, y tế, chuyển giao công nghệ, môi trường, năng lượng và các Luật về Thuế và Hải quan… Do đó, dứt khoát phải xử lý dứt điểm tình trạng này, cần thiết phải đồng bộ và thống nhất trong chính sách pháp luật liên quan tới phát triển kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Một điểm đáng chú ý nữa cần giải quyết liên quan tới vấn đề lao động, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động, mức tăng lương tối thiểu, cấp giấy phép lao động và cần làm rõ hơn về việc “tự nguyện tham gia” bảo hiểm xã hội cho lao động nước ngoài. Vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút đầu tư thông qua hình thức đối tác công – tư (PPP) hiệu quả hơn, đa dạng hóa các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, địa nhiệt cũng được đề nghị các cấp, ngành cần quan tâm. Ngoài ra, còn có nhiều vấn đề khác cũng cần phải quan tâm như tạo thuận lợi thương mại, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao chất lượng giáo dục, miễn thị thực nhập cảnh, chuẩn hóa chế độ kế toán Việt Nam, cải cách thủ tục hành chính, quản trị và liêm chính.../.
Lê Anh