|
Ảnh minh họa: Hoàng Hùng |
Nghị quyết số 163/NQ-CP của Chính phủ nêu rõ: Mục tiêu là biến dịch vụ hậu cần thành một ngành dịch vụ có giá trị cao và liên kết sự phát triển của chúng với thương mại địa phương và quốc tế, sản xuất hàng hóa và cơ sở hạ tầng cho giao thông vận tải, tăng cường kết nối để đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics quan trọng trong khu vực; phát triển logistics gắn với chuỗi cung ứng bền vững; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ; mở rộng thị trường dịch vụ logistics; tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dịch vụ logistics. Với ngành công nghiệp thực phẩm tại Việt Nam, logistics xanh đóng một vai trò quan trọng giúp đảm bảo việc vận chuyển sản phẩm thực phẩm hiệu quả và bền vững, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
Tình hình kinh tế - xã hội TP Hồ Chí Minh trong tháng 5 có một số điểm tích cực như chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) ước tính tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ; tính chung 5 tháng đầu năm 2023 chỉ số IIP trên địa Thành phố tăng 1,6% so với cùng kỳ. Trong đó, logistics là một trong những ngành kinh doanh quan trọng nhất của Việt Nam. Đây là lĩnh vực đóng góp vào sự phát triển của kinh tế quốc gia thông qua việc cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa và quản lý chuỗi cung ứng.
Theo ông Nguyễn Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TP Hồ Chí Minh (ITPC), xu hướng mới là logistics xanh - mắt xích quan trọng để “xanh hóa” chuỗi cung ứng thực phẩm. Năm 2023, trước bối cảnh người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng các sản phẩm thân thiện môi trường thì việc “xanh hóa” ngành logistics và ứng dụng logistics xanh là yêu cầu bắt buộc. Có nghĩa ngành logistics phải đa dạng các giải pháp “xanh hóa” trên các phương diện như vận tải xanh, bao bì xanh, kho bãi xanh, quản lý dữ liệu logistics xanh. Như vậy, ngành logistics muốn phát triển mạnh hơn để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu hàng hóa thì trước tiên phải tự “tái cấu trúc”, như tối ưu hóa tuyến đường giao hàng, giảm số lượng xe tải trống hoặc chở hàng nửa chừng trên đường để tiết kiệm nhiên liệu và chi phí vận chuyển. Đặc biệt, trong bối cảnh “xanh hóa” là yêu cầu bắt buộc, xuyên suốt từ sản xuất vận chuyển đến tiêu dùng, ngành logistics không thể đứng ngoài cuộc, nếu muốn tồn tại và hỗ trợ cho xuất khẩu.
Cùng quan điểm trên, ông Dương Anh Đức, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh chia sẻ, hiện các sản phẩm nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam đã có mặt tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Rất nhiều ngành trong lĩnh vực này đã đóng góp hơn 1 tỷ USD vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm, đặc biệt một số ngành như thủy sản đã đóng góp hơn 10 tỷ USD. Không dừng lại đó, Việt Nam đã chủ động tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, những điều kiện giảm thuế xuất khẩu từ các thị trường trên thế giới đã và đang mở ra nhiều cơ hội hơn cho hàng hóa xuất khẩu của DN Việt Nam. Tuy vậy, để tận dụng cơ hội này, nhất thiết phải cải thiện năng lực của ngành logistics.
Bà Đỗ Thị Mỹ Lệ, Giám đốc Kinh doanh Công ty TNHH Trung Minh Thành cho biết, nếu sử dụng vận tải bằng đường thủy, công ty phải chi phí 10%/tổng giá trị sản phẩm; nhưng nếu sử dụng vận tải đường hàng không thì chi phí sẽ gấp 2 lần tổng chi phí sản phẩm. Không dừng lại đó, vận tải đường biển phục vụ DN xuất khẩu cũng phụ thuộc hãng tàu nước ngoài. Do vậy, nhiều năm qua, các DN gặp nhiều khó khăn, trễ thời gian giao hàng do phải chờ ghép container hoặc chờ chuyến do hãng tàu sắp xếp.
Cùng quan điểm trên, ông Hoàng Mạnh Cường, Giám đốc Công ty TNHH Vinaxo, phân tích, ngành logistics Việt Nam đang tồn tại nhiều hạn chế, như: Ngành logistics phân mảnh Ngành logistics tại Việt Nam vẫn còn phân mảnh, với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động độc lập. Thiếu sự phối hợp và tiêu chuẩn hóa trong các dịch vụ logistics, Kém hiệu quả và tăng chi phí. Nhiều nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Việt Nam thiếu các năng lực công nghệ và chuyên môn cần thiết để cung cấp các dịch vụ logistics chất lượng cao. Quản lý tồn kho kém, v..v, và chậm giao hàng. Dù Việt Nam đã đầu tư đáng kể vào phát triển hạ tầng, tuy nhiên vẫn còn những khu vực hạ tầng không đủ hoặc cần cải thiện. Ví dụ, mạng lưới đường bộ và đường sắt ở một số khu vực có thể không đủ để đáp ứng nhu cầu của ngành logistics đang phát triển. Một số rào cản quy định, chẳng hạn như thủ tục hải quan phức tạp và yêu cầu cấp phép nghiêm ngặt Làm chậm sự phát triển của ngành logistics tại Việt Nam. Khiến cho nhà cung cấp dịch vụ logistics khó khăn trong việc vận hành hiệu quả và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
TS Tôn Thất Tú, chuyên gia tư vấn quốc tế cho rằng, vận tải đường bộ tại Việt Nam so với các phương tiện khác chiếm 74,4% tổng số lượng vận tải, kế đến là đường thủy nội địa chiếm hơn 19%; còn đường sắt, đường biển và hàng không chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn. Trong đó, nếu xét theo nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải logistics của DN thì vận tải đường biển chiếm hơn 68%, tiếp đến là đường bộ, hàng không và các phương tiện khác.
Về giải pháp, TS Tôn Thất Tú, để cải thiện vận tải hàng hóa tại Việt Nam, một số chính sách cụ thể có thể được triển khai bao gồm: Đầu tư cơ sở hạ tầng Chính phủ có thể đầu tư vào cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông như đường bộ, đường sắt, sân bay và cảng để tạo điều kiện cho việc vận chuyển hàng hóa trên toàn quốc. Điều này đòi hỏi đầu tư đáng kể để xây dựng cơ sở hạ tầng mới và nâng cấp các cơ sở hiện có.
Tiếp đến, Chính phủ có thể đơn giản hóa quy định và giảm thủ tục hành chính tạo ra rào cản đối với nhà cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa. Điều này sẽ giúp khuyến khích sự cạnh tranh và đổi mới trong ngành.
Cùng với đó, Chính phủ có thể đầu tư vào các chương trình phát triển kỹ năng cho người lao động vận tải hàng hóa, đặc biệt là trong các lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng và công nghệ thông tin. Điều này sẽ giúp cải thiện chất lượng nhân lực và hiệu quả của hoạt động vận tải hàng hóa.
Bên cạnh đó, Chính phủ có thể khuyến khích sự áp dụng các công nghệ mới như tự động hóa kho, hệ thống quản lý vận tải và trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Điều này sẽ giúp cải thiện hiệu quả và độ chính xác của hoạt động vận tải hàng hóa. Đồng thời, Chính phủ có thể thiết lập các đối tác với các doanh nghiệp tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ vận tải hàng hóa, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà đầu tư tư nhân bị giới hạn. Đồng thời, khuyến khích vận tải xanh Chính phủ có thể cung cấp các dịch vụ vận tải hàng hóa thân thiện với môi trường hơn, chẳng hạn như sử dụng các phương tiện điện hoặc giảm thiểu lượng chất thải đóng gói. Điều này sẽ giúp thúc đẩy các hoạt động logistics bền vững và giảm thiểu tác động của ngành công nghiệp này đến môi trường./.