Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những chủ trương, quyết sách, định hướng lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực để phát triển đất nước trong những năm tới. Một trong những quyết sách quan trọng đó là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030. Chủ đề của Chiến lược là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 nằm trong Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Chiến lược đã bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu phát triển khả thi, xác định đúng đắn các nhiệm vụ, giải pháp; đánh giá đúng tầm quan trọng của mỗi nhiệm vụ để tập trung nguồn lực, tháo gỡ những khó khăn, khắc phục hạn chế, yếu kém nhằm đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng đã thống nhất cao về các quan điểm, mục tiêu, khâu đột phá và nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Chiến lược.
Trong Chiến lược này, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo với các chủ đề về phát triển bền vững kinh tế - xã hội, về thể chế, về con người, về lực lượng sản xuất và về quan hệ quốc tế; ba đột phá chiến lược; 10 nhiệm vụ, giải pháp phát triển và đặt ra những mục tiêu để phấn đấu. Bên cạnh những nội dung tiếp tục kế thừa, đã có nhiều nội dung mới, sáng tạo và phù hợp hơn với hoàn cảnh và yêu cầu phát triển mới.
Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thể hiện trí tuệ, tầm nhìn xa, thông suốt của Đảng ta. Với tinh thần nêu cao trách nhiệm, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã đánh giá khách quan, trung thực kết quả tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020; đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991; 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới; phân tích, đánh giá những yếu tố tác động (cả khách quan và chủ quan) đến quá trình phát triển, rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và triển khai thực hiện, từ đó đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện trong 10 năm tới.
Quan điểm chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong 10 năm tới mang tính thực tiễn sinh động và tính cách mạng sâu sắc; kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và tính cách mạng trong phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đất nước; xác định đúng đắn yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tính thực tiễn của Chiến lược thể hiện đánh giá khách quan toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian dài, tổng kết thực tiễn và thống nhất kết luận về một quá trình kinh tế, một quá trình xã hội làm cơ sở thực tiễn cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tính cách mạng của Chiến lược thể hiện ở sự kế thừa, bổ sung, phát triển trong mỗi quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với tình hình đất nước và thế giới trong một giai đoạn lịch sử cụ thể; là phương thức (phương pháp, giải pháp, biện pháp) tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới và hướng đến sự bình yên, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
* Về quan điểm: Chiến lược đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, đó là:
- Quan điểm thứ nhất: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; coi phát triển kinh tế số, xã hội số là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay.
- Quan điểm thứ hai: Lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới. Phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Quan điểm thứ ba: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân.
- Quan điểm thứ tư: Xây dựng nền kinh tế tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập, đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh và huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại.
- Quan điểm thứ năm: Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của Nhân dân.
Có thể nói rằng, về mặt quan điểm, các điểm nhấn mới là coi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số3 là nhân tố quyết định để phát triển nhanh và bền vững; coi việc nâng cao chất lượng thể chế là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước; coi khát vọng phát triển, văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, là sức mạnh nội sinh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 tiếp tục đề cập tới 3 đột phá chiến lược về thể chế, nhân lực và hạ tầng, nhưng nội hàm và trọng tâm của mỗi đột phá đã có nhiều thay đổi. Đó là:
Một là, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ.
Hai là, tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng địa phương kết nối đồng bộ, thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số4, xã hội số.
Trên cơ sở đánh giá tình hình, xác định các khâu đột phá, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đề ra mục tiêu tổng quát và cụ thể để phấn đấu.
* Về mục tiêu: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 vẫn kế thừa mục tiêu tiến tới trình độ là nước công nghiệp với tầm nhìn xa hơn, cách diễn đạt mới hơn và thêm những nội dung mới, đó là: Phấn đấu đến năm 2025, nước ta là nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đến lúc đó, coi như chúng ta đã “thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng của toàn dân tộc”.
Một số mục tiêu cụ thể về kinh tế và môi trường, có những điểm đáng lưu ý: Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm, để đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD/người (giá hiện hành), nằm trong nhóm nước có mức thu nhập trung bình cao5.
Trong số các mục tiêu cụ thể về xã hội, đáng chú ý là mục tiêu tổng hợp về Chỉ số phát triển con người (HDI), phấn đấu duy trì ở mức 0,76. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35% - 40%; tỷ trong lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội vào năm 2030 giảm xuống dưới 20%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm.
Đối với các mục tiêu cụ thể về môi trường, phấn đấu đến năm 2030, 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt quy chuẩn vê môi trường; tỷ lệ xử lý và tái sử dung nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%; giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính, duy trì tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%; tăng diện tích các khu bảo tồn biển và ven biển…
* Về nhiệm vụ, giải pháp:
Để đạt được mục tiêu, Chiến lược đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững:
- Giải pháp thứ nhất: Tập trung hoàn thiện nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
- Giải pháp thứ hai: Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất7, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Giải pháp thứ ba: Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
- Giải pháp thứ tư: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô.
- Giải pháp thứ năm: Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới.
- Giải pháp thứ sáu: Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
- Giải pháp thứ bảy: Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
- Giải pháp thứ tám: Củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Giải pháp thứ chín: Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập và vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Giải pháp thứ mười: Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính.
Mỗi giải pháp chứa đựng những nội dung cụ thể nhưng đều nằm trong một thể thống nhất kinh tế - xã hội; có liên quan hữu cơ, biện chứng, tác động qua lại nhằm hướng đến đạt được những mục tiêu phát triển của Chiến lược.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 là một trong những văn kiện Đại hội XIII của Đảng, là quyết sách quan trọng hàng đầu của Đảng liên quan chặt chẽ đến sự phát triển các lĩnh vực cơ bản khác của đời sống xã hội trong 10 năm tới. Quan điểm, mục tiêu, lựa chọn khâu đột phá và xác định nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược thể hiện tầm nhìn xa, thông suốt của Đảng, trong đó nỗi bật là tư tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quá trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, hưng thịnh, xem đây là động lực nội sinh cơ bản, xuyên suốt. Một trong những điểm nhấn quan trọng của Chiến lược là phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu dựa vào khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Vì vậy, cần phải đổi mới tư duy phát triển, cách làm, cách tổ chức thực hiện để đạt những mục tiêu đề ra, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, tăng cường, củng cố an ninh, quốc phòng, phát triển văn hóa, con người, nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
Với niềm tự hào dân tộc, lòng mong ước xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh), mỗi cấp ủy đảng, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị sớm triển khai đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống. Xây dựng chương trình hành động đúng đắn, thiết thực và thực hiện hiệu quả, góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu đẹp, văn minh, qua đó tăng cường, củng cố lòng tin của Nhân dân vào Đảng, gắn bó ngày càng sâu sắc, bền vững hơn giữa Nhân dân với Đảng./. Phan Văn Lãn
1. Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe doạ bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt… Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe doạ nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta (Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng).
2. Theo điều tra xã hội học năm 2019 của Ban Tuyên giáo Trung ương, hơn 93% dân số tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
3. Mục tiêu đến năm 2025 duy trì xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc 3 nước dẫn đầu ASEAN. Xây dựng được hạ tầng số đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN; Internet băng thông rộng phủ 100% các xã. Kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP; năng suất lao động tăng bình quân trên 7%/năm. Cơ bản hoàn thành chuyển đổi số trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội. Thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung...(Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”).
4. - Hội thảo Băng thông rộng di động & cố định (World Mobile Broadband & ICT) được tổ chức vào ngày 25/3/2021, tại Hà Nội. Đây là diễn đàn quan trọng của các nhà quản lý, các chuyên gia viễn thông nhằm thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ viễn thông tại thị trường Việt Nam. Hội thảo nhận định: Trong vòng 10 năm tới, thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến những chuyển đổi lớn của xã hội loài người. Đó là sự chuyển dịch từ thế giới thực sang thế giới ảo, sự chuyển đổi toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội sang môi trường số, dữ liệu sẽ trở thành một nguồn tài nguyên quan trọng của mỗi quốc gia và sự phát triển mạnh mẽ của kết nối vạn vật.
- Báo cáo "Nền kinh tế số Đông Nam Á năm 2020" do Google, Temasek và Bain cho thấy, nền kinh tế số Việt Nam đạt tổng giá trị 14 tỷ USD, cao 2 tỷ USD so với giá trị của cùng kỳ năm ngoái. Hơn nữa, trong tổng số người sử dụng dịch vụ kỹ thuật số, người dùng mới tại Việt Nam chiếm đến 41%. Điều này biến Việt Nam thành quốc gia có tỉ lệ người dùng Internet cao nhất trong khu vực. Tính đến hết tháng 2/2021, tại Việt Nam tổng số thuê bao băng rộng cố định vượt 17,2 triệu thuê bao, tổng thuê bao băng rộng di động đạt gần 69,5 triệu thuê bao (số liệu Cục Viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông).
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số quốc gia còn chậm, thiếu chủ động. Kinh tế số có quy mô còn nhỏ. Kinh tế số ở Việt Nam chiếm 4% GDP trong khi ở Trung Quốc – 34%. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội (theo Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị).
5. Từ 4.046 – 12.535 USD/người/năm theo phân loại của Ngân hàng Thế giới áp dụng cho năm tài chính 2020 – 2021.
6. Năm 2019, Việt Nam đạt 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới (Nguồn: Thông tin Báo cáo viên, số tháng 3/2021).
7. Nâng cao năng suất lao động, phấn đấu đạt mức trung bình của các nước ASEAN-6, bảo đảm hội nhập có kết quả là một trong những yêu cầu của Quốc hội, sau chất vấn và giám sát chuyên đề liên quan đến lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Tại báo cáo mới gửi đến Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (người thừa ủy quyền Thủ tướng ký báo cáo) cho biết, năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2019 tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong ASEAN. Năm 2019, năng suất lao động Việt Nam theo giá hiện hành đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792 USD/lao động), theo giá so sánh (2010) tăng 6,28%, giúp duy trì mức tăng năng suất lao động toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015, đạt mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/ 02/ 2017 của Chính phủ (tăng trên 5,5%). Cụ thể hơn, báo cáo nêu, năng suất lao động giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 26,2%; trong đó, năng suất lao động nội ngành tăng 16,6%; năng suất do chuyển dịch cơ cấu ngành tăng 9,4%; và do chuyển dịch lao động tăng 0,2% .
Theo giá so sánh, bình quân năm trong giai đoạn 2016-2019, năng suất lao động toàn nền kinh tế tăng 6,01%, cao hơn tốc độ tăng 4,27% của giai đoạn 2011-2015.Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2019 cao hơn các nước ASEAN-6. Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2019 tăng bình quân 4,87%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore (1,37%/năm); Malaysia (2,04%/năm); Thái Lan (3,17%/năm); Indonesia (3,59%/năm); Philippines (4,33%/năm); Brunei (giảm 0,32%/năm). Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, theo PPP 2011, năng suất lao động của Việt Nam năm 2019 chỉ bằng 7,6% mức năng suất của Singapre; 19,5% của Malyasia; 37,9% của Thái Lan; 45,6% của Indonesia; 56,9% của Philippines và 68,9% của Brunei. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong thời gian tới để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước ASEAN-6 (Nguồn: Thông tin công tác Tuyên giáo, số tháng 11/2020).