Bối cảnh lịch sử
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19/05/1890) sinh ra và lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi hoàn thành bình định về quân sự, chúng thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" hết sức tàn bạo đối với nước ta, gây ra sự biến động to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam, làm thay đổi kết cấu giai cấp, đảo lộn cuộc sống mọi tầng lớp nhân dân. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, đời sống các tầng lớp nhân dân ngày càng bị bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ngày càng gia tăng, giữa dân tộc bị nô lệ và thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh chống Pháp và phong kiến tay sai nổ ra khắp nơi với nhiều xu hướng cứu nước khác nhau.
Thời gian 10 năm, Nguyễn Sinh Cung sống ở Kinh đô Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, Người đã tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân và có thêm nhiều hiểu biết mới. Với các phong trào yêu nước, như: Phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo, phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ, Nguyễn Sinh Cung rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối, nhưng Người không đi theo con đường đó.
Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Người, để rồi có một quyết định chính xác và táo bạo là đi tìm đường cứu nước.
Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 05/6/1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Sácgiơ Rêuyni, còn gọi là hãng Năm Sao, từ bến cảng Sài Gòn, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Sinh Cung rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước (lúc đó Người lấy tên là Nguyễn Tất Thành).
Năm 1923, khi trả lời một nhà báo Nga, Người đã nói rõ về mục đích ra đi của mình: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy"1. Năm 1965, trả lời một nhà văn Mỹ, Người kể: "Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi"2.
Theo hành trình của tàu, Nguyễn tất Thành đã dừng chân ở cảng Mácxây, cảng Lơ Havơrơ của Pháp. Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, Người cũng nhận thấy có những người Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương.
Với một ý nghĩ rất sâu sắc là muốn đánh đuổi thực dân Pháp, phải hiểu Pháp, phải học tập văn hóa và kỹ nghệ Pháp, ngày 15/9/1911 từ Mácxây, Người viết đơn gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp trình bày nguyện vọng muốn vào học Trường Thuộc địa. Tuy nhiên, đơn của Người không được chấp nhận. Ngày 21/10/1911, ông hiệu trưởng Trường Thuộc địa viết thư trả lời từ chối, nói trường chỉ nhận những người đã học và được toàn quyền Đông Dương tuyển chọn..3.
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Người làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông... Đến đâu Người cũng thấy cảnh khổ cực của Người dân lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy, Người đã trông thấy ở Đaca: "Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả canô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi"4. Cảnh tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Người liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của mình. Họ cũng là những nạn nhân của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường Người đi qua, tạo nên ở Người mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.
Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctinich (Trung Mỹ), Uruguay và Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Người vừa đi làm thuê để kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Người đã đến thăm quận Brúclin của thành phố Niu Óoc và đi xe điện ngầm đến khu Háclem để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen.
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ tở về Lơ Ha vơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, Nguyễn Tất Thành nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày Người đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh.
Từ nước Anh, Người gửi thư liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình sinh hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư, Người cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời cuộc.
Giữa lúc cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất diễn ra ác liệt, tình hình Đông Dương đang có những biến động, vào khoảng năm 1917, Nguyễn Tất thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có gấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được các đồng chí trong Ban đón tiếp những người lao động nhập cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong khi chờ các đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp tìm cho gấy tờ quân dịch hợp pháp, Nguyễn Tất Thành phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống của Người khi đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, nhưng Nguyễn Tất Thành vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động. Người thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ như: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Người từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, Người trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái".
Năm 1918, Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Vécxây (Pháp). Hội nghị này còn gọi là Hội nghị hòa bình Pari, nhưng thực chất đó là nơi chia phần giữa các nước đế quốc thắng trận và trút hậu quả chiến tranh lên đầu nhân dân các nước thua trận và các dân tộc bị áp bức.
Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây. Dưới bản Yêu sách, Nguyễn Tất Thành ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên danh xưng Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp đến lâu đài Vécxây gửi bản Yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự Hội nghị. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc còn tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ tiếng: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư. Nguyễn Ái Quốc đến Nhà in Sácpăngngchiê, số 70 phố Gôbơlanh, bỏ tiền túi của mình thuê in 6.000 bản Yêu sách của nhân dân An Nam để phân phát trong các cuộc hội họp, mít- tinh, phát đi nhiều nơi và bí mật gửi về Việt Nam.
Thực dân Pháp bắt đầu chú ý đến người có tên Nguyễn Ái Quốc. Một tổ mật thám được thành lập để chuyên theo dõi Nguyễn Ái Quốc. Những tên này thay nhau bám theo Người hàng ngày, báo cáo cấp trên chi tiết mọi hoạt động của Người. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Pari, viên mật thám Pháp Pôn Acnu chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Pari, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bản Yêu sách cho những người có mặt tại Hội trường, đã phải thốt lên dự cảm: "Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương"5. Cũng nhờ từ các bản báo cáo của tổ mật thám này, mà nay chúng ta được biết luật sư Phan Văn Trường từng nhận xét Nguyễn Ái Quốc: "thuộc loại người rất cừ khôi" và từ năm 1922, Nguyễn Ái Quốc đã: "nói thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, có thể nói được tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Trung"6.
Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam không được Hội nghị xem xét, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau này Người viết: "Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là trò bịp bợm lớn"7 và "muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"8.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, Đầu năm 1919, Lênin và những người theo chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của Lênin họp đại hội ở Mátxcơva, thành lập Quốc tế III - tức Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, Pháp ngày 16 và ngày 17/7/1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người đứng đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, về sự đoàn kết của giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến.
Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Người nói: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi, đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vùng mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”9.
Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Ủy ban Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp lập ra, nhằm tuyên truyền vận động gia nhập Quốc tế III.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, họp từ ngày 25-30/12/1920, ở thành phố Tua (Pháp), cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III – Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như việc gửi bản Yêu sách tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. 40 năm sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”10.
Như vậy, từ năm 1911 đến năm 1920, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua những tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động nhiều nước trên thé giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, Người vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. Người thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng khổ cực như nhau. Bước đầu Người rút ra kết luận quan trọng là: Ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; Các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau này Người đã khái quát thành một chân lý: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”11.
Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp nhận, tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc kết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”12.
Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc là phù hợp với trào lưu tiến trình phát triển của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác-Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương hướng mới, một bước ngoặt mới.
110 năm qua đi, chúng ta càng tự hào về sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành năm 1911. Sự lựa chọn ấy như một cuộc hẹn gặp lịch sử, trở thành một trong những tiền đề cho những biến đổi lớn lao của dân tộc ta trong suốt hơn một thế kỷ qua./. Chu Đức Tính
1. Báo Ogoniok, số 39, ngày 23/12/1923.
2. Báo Nhân dân, ngày 18/5/1965.
3. Bản sao bút tích Đơn xin học của Nguyễn Tất Thành trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
4. Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr 26.
5. Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, H, 1976, tr.81.
6. Danh mục tài liệu chính quyền Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, Quyển 1, lưu kho cơ sở Bảo tàng Hồ Chí Minh, Báo cáo số 424, số 54.
7. Hồ chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,H, 2011, t.1, tr.441.
8. Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.37.
9,10,11,12: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia.