Sẵn sàng đoàn kết, chia sẻ khó khăn để cùng vượt qua đại dịch COVID-19 

(Chinhphu.vn) – Tại Tọa đàm “COVID-19 và FDI: Tác động và triển vọng” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều 27/9, lãnh đạo các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương có thế mạnh thu hút đầu tư FDI và đại diện các doanh nghiệp nước ngoài lớn đang đầu tư kinh doanh hiệu quả tại Việt Nam, đều khẳng định tinh thần sẵn sàng đoàn kết, chia sẻ khó khăn để cùng vượt qua tác động của đại dịch COVID-19, tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

 

Tham dự Tọa đàm đại diện lãnh đạo Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỉnh Bắc Ninh, Đồng Nai và Tổ hợp Samsung Việt Nam, Nestlé Việt Nam - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Đầu tháng 9 vừa qua, trong vòng 1 tuần Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có 3 cuộc gặp với các đại sứ, đại điện doanh nghiệp, đại diện các tổ chức có nhiều đầu tư tại Việt Nam. Thủ tướng khẳng định luôn ủng hộ và đồng hành cùng các nhà đầu tư. Trong bối cảnh khó khăn chung toàn cầu hiện nay, trong khi cả nước đang gồng mình chống dịch, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến các nhà đầu tư, đến môi trường đầu tư, chú trọng cải thiện, kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Thủ tướng đã lắng nghe các kiến nghị của các nhà đầu tư, giao cho các Bộ ngành, các địa phương xem xét giải quyết các khó khăn, tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư để họ yên tâm đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Cơ chế, chính sách về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được quan tâm hoàn thiện và toàn diện hơn, qua đó giúp kết quả cải cách thực chất hơn, hiệu quả và thiết thực hơn.

Để cùng bàn luận và chia sẻ về môi trường đầu tư ổn định, an toàn và hấp dẫn với nhiều tiềm năng, lợi thế nổi trội của Việt Nam, hôm nay, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “COVID-19 và FDI: Tác động và triển vọng”.

Tham dự chương trình có: Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và  Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc; Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng; Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nestlé Việt Nam Binu Jacob; ông Choi Joo Ho, Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam.

 

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc: Chúng tôi cho rằng những khó khăn, vướng mắc chỉ mang tính nhất thời - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Thưa Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc, Các con số thu hút đầu tư trong 9 tháng đầu năm 2021 nói lên thông điệp nhất quán của Chính phủ trong việc tạo mọi điều kiện cho các nhà đầu tư khắc phục khó khăn của dịch bệnh, đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển kinh tế. Trong thời điểm khó khăn do dịch bệnh, quan điểm đó càng được khẳng định đúng không, thưa bà?

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc: Chúng tôi khẳng định thông điệp và chủ trương nhất quán đó của Chính phủ. Về tình hình sản xuất của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 9 tháng đầu năm 2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 403,19 tỷ USD. Vốn thực hiện ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đầu tư. Khu vực này phát triển nhanh và có hiệu quả, trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của ngân sách, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm và nâng cao thu nhập của người lao động. Đại dịch COVID-19 đang tác động hết sức tiêu cực đến khu vực FDI, trong đó có việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, đợt dịch lần thứ 4 đã đánh trực tiếp vào các trung tâm công nghiệp lớn của cả nước như TPHCM, Bắc Giang, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương… là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp FDI, khiến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề, làm đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị đảo lộn sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp phải dừng một phần, thậm chí toàn bộ hoạt động.

Đứng trước thách thức đó, thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã luôn đồng hành, chia sẻ với những khó khăn mà doanh nghiệp đối mặt, luôn nỗ lực hành động vì một mục tiêu cao nhất là phòng, chống dịch hiệu quả, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, đảm bảo hài hòa, hợp lý giữa phòng, chống dịch và triển khai hoạt động với phương châm như Thủ tướng Chính phủ đã nói: “Chống dịch để sản xuất và sản xuất để chống dịch”. Lợi ích thì chúng ta phải hài hòa, rủi ro thì chúng ta chia sẻ.

Chúng tôi cũng thấy rằng, ở chiều ngược lại, cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI, đã thể hiện tinh thần đoàn kết, chung tay chia sẻ có trách nhiệm với Chính phủ, chính quyền địa phương, hỗ trợ người dân, cộng đồng trong cuộc chiến với COVID-19 bằng nhiều hình thức.

Các doanh nghiệp đã thể hiện tinh thần vượt khó, thích ứng với tình hình mới, duy trì sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội.

Chính phủ Việt Nam luôn nhất quán tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư, phát triển kinh tế. Trong thời điểm khó khăn này, quan điểm đó càng được khẳng định. Con số thu hút đầu tư nước ngoài 9 tháng năm 2021 đã nói lên điều đó. Điều này đã thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và khẳng định tính hiệu quả trong giải pháp đồng hành, hỗ trợ mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt trong thời gian vừa qua. Chúng tôi cho rằng những khó khăn, vướng mắc chỉ mang tính nhất thời. 

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng: Chúng tôi lắng nghe các khó khăn cũng như kiến nghị của doanh nghiệp - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Tính tới đầu tháng 9/2021, đã có 42 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh với số vốn đăng ký lên tới 32 tỷ USD. Xin bà Nguyễn Thị Hoàng chia sẻ những kinh nghiệm và các chính sách là “chìa khoá” thu hút vốn FDI cũng như đánh giá về những cơ hội, lợi thế cạnh tranh, tiềm năng hiện hữu của Đồng Nai trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài?

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng: Trong 9 tháng đầu năm 2021, tổng số vốn đầu tư thu hút, cấp mới tăng 25% so với cùng kỳ và đạt 88% so với kế hoạch năm 2021. Trong đó cấp mới 42 dự án với tổng vốn đăng ký tăng 50,1% so với cùng kỳ và đạt 62,7% so với kế hoạch năm 2021.

Đa phần các dự án là sản xuất công nghiệp phụ trợ, tập trung tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Dẫn đầu vẫn là các dự án đầu tư từ Hàn Quốc, tiếp theo là Nhật Bản, Singapore.

Thời gian qua, Đồng Nai là một trong những địa phương có lượng lớn dòng vốn FDI và cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm trong thu hút đầu tư FDI:

Thứ nhất, hằng năm UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành xây dựng các kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài tại các thị trường tiềm năng và nơi có nhiều nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm để giới thiệu đến tỉnh Đồng Nai. Trong năm 2021, như chúng ta đã thấy, từ tháng 4 đợt dịch lần thứ 4 bùng phát, tất cả những việc để xúc tiến đầu tư nước ngoài của tỉnh Đồng Nai cũng bị dừng lại. Tuy nhiên, chúng tôi kết nối với các nhà đầu tư đã đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tiếp tục gặp gỡ họ. Chính vì vậy, những tháng đầu năm, vốn đầu tư FDI mới đạt được kết quả nêu trên.

Thứ hai, tỉnh quan tâm xây dựng và tổ chức các hội nghị để kết nối các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Ở các hội nghị, chúng tôi lắng nghe các khó khăn cũng như kiến nghị của doanh nghiệp. Chỉ đạo các sở, ban, ngành cùng nhau gỡ khó cho các doanh nghiệp.

Thứ ba, chúng tôi thường xuyên phối hợp với Cục Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản để xây dựng, mở rộng hệ thống điều phối viên hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản và doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của tỉnh

Việc phát triển các khu công nghiệp gắn liền với phát triển đồng bộ với hệ thống giao thông đường bộ cũng như hàng không. Có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư FDI và vốn để đầu tư.

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn: Bắc Ninh là địa phương cởi mở thu hút FDI - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Hiện nay Bắc Ninh đang đứng top 7 tỉnh, thành phố dẫn đầu về thu hút nguồn vốn FDI. Đây cũng là kết quả của các chính sách “hai ít, ba cao, bốn sẵn sàng’. Xin ông Vương Quốc Tuấn cho biết rõ hơn về chính sách này!

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn: Bắc Ninh là địa phương cởi mở thu hút FDI, là điểm đến thu hút nhà đầu tư nước ngoài rất lớn.

Tại thời điểm hiện nay thu hút khoảng 37 quốc gia với 20,4 tỷ USD vốn FDI. Với các cơ chế tạo thuận lợi tối đa cho các DN, Bắc Ninh đang thực hiện rất tốt, với các tập đoàn đa quốc gia như  Samsung, Canon… Tỉnh đã có chủ trương đa dạng hoá đầu tư, tạo thuận lợi nhất cho các DN về hạ tầng. Với cơ chế chính sách đáp ứng nhu cầu FDI chất lượng cao trong những năm trở lại đây, tỉnh nằm trong top 10 về thu hút FDI, top 10 trong bảng xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), nhiều mô hình, đặc biệt là mô hình bác sĩ doanh nghiệp, đã có tác động tích cực hỗ trợ đầu tư.

Gần đây, Bắc Ninh có mô hình mới, với thương hiệu “2 ít , 3 cao, 4 sẵn sàng” là bước đi cụ thể hoá Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. 

Tỉnh đặt tiêu chí “2 ít”, đó là ít đất, ít dùng lao động vì đặc điểm Bắc Ninh có diện tích đất tự nhiên nhỏ nhất. Do đó, Bắc Ninh tập trung khuyến khích các dự án công nghệ cao, tiết kiệm đất, dùng ít lao động.

Tỉnh cũng có tiêu chí “3 cao”: Suất vốn đầu tư các dự án FDI cao, tăng cường tính lan toả dự án. Hai là công nghệ cao, chúng tôi đặt mục tiêu ưu tiên các dự án FDI công nghệ cao, gắn với giải quyết vấn đề gây ô nhiễm môi trường. Ba là hiệu quả cao, tập trung làm sao thu hút nguồn lực cho ngân sách, góp phần đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

Chúng tôi có  “4 sẵn sàng”: Trước hết là tập trung sẵn sàng mặt bằng, tạo cho các nhà đầu tư đến với Bắc Ninh có điều kiện tốt nhất. Hai là sẵn sàng nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đầu tư. Ba là sẵn sàng cơ chế, cải cách thủ tục, chính sách ưu đãi, tận dụng tối đa chính sách ưu đãi về pháp luật. Bốn là sẵn sàng hỗ trợ, giải quyết mọi khó khăn. Các DN, nhà đầu tư đều được giải quyết qua cơ quan cao nhất của tỉnh, nhanh chóng thuận lợi. Do đó, trong những năm qua, hiệu quả thu hút đầu tư ngày càng cao lên. Bắc Ninh tập trung thu hút FDI đầu tư cho công nghệ cao, với công nghệ điện tử là mũi nhọn. Trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu tỷ trọng đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghệ chiếm tới 86% tổng vốn FDI. Vì vậy, Bắc Ninh vươn lên là địa phương phát triển công nghệ đứng đầu toàn quốc, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2, thu hút đầu tư đứng thứ 6.

Với quá trình nỗ lực của cộng đồng DN, cũng như chủ trương cải thiện thu hút đầu tư của Bắc Ninh vừa qua, tỉnh tạo niềm tin hấp dẫn các nhà đầu tư lớn, lan toả với các nhà đầu tư trong nước.

Qua thực tiễn Bắc Ninh áp dụng chính sách, chúng tôi đã hỗ trợ, tạo ra các nhà cung cấp “vendor” cấp 1, cấp 2, cấp 3 cho các nhà đầu tư lớn trong nước cũng như cho các nhà đầu tư của tỉnh.

Đáng chú ý, vừa rồi Bộ Công Thương, UBND tỉnh Bắc Ninh, Samsung Việt Nam đã tăng cường phối hợp, hiệu quả kỹ thuật,  kinh nghiệm quản lý, đáp ứng nhu cầu các chuỗi vendor cung cấp cho các DN lớn như Samsung, thực hiện thành công hiệu quả…

 

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Các địa phương phải rà soát các phương án sản xuất của từng doanh nghiệp trên địa bàn - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Xin ông cho biết kết quả công tác phòng chống dịch bệnh tại nước ta cho đến hôm nay? Một số địa phương đã bắt đầu nới lỏng giãn cách và ngành y tế có thông điệp gì với các nhà đầu tư về thích ứng an toàn, kiểm soát dịch bệnh hiệu quả để sớm đưa cuộc sống trở về trạng thái bình thường mới?

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Thưa quý vị, Việt Nam đã trải qua nhiều đợt dịch, đến nay là đợt dịch thứ 4. Đợt dịch này diễn biến phức tạp, nhưng với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự vào cuộc của các địa phương, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã và đang kiểm soát khá tốt.

Đến nay có 62/63 tỉnh, thành phố xuất hiện ca bệnh, nhiều địa phương như TPHCM, Bình Dương, Đồng Nai… vẫn đang thực hiện giãn cách xã hội. Tuy nhiên, số ca nhiễm và tử vong đã giảm nhiều và chúng ta có thể tính đến phương án mở cửa trở lại để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân và việc sản xuất của doanh nghiệp.

Thực tế, một số tỉnh đã bắt đầu dỡ bỏ giãn cách xã hội và thực hiện mục tiêu kép mà Thủ tướng đã đưa ra. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng đưa ra thông điệp: “ Sản xuất phải an toàn, an toàn để sản xuất”. Để thực hiện việc này, Bộ Y tế đã đưa ra các giải pháp cụ thể và tham mưu cho Ban chỉ đạo:

Thứ nhất, các địa phương phải quán triệt đầy đủ và nghiêm túc các văn bản liên quan đến phòng chống dịch bệnh và sản xuất trong điều kiện bình thường mới.

Thứ hai, các địa phương phải rà soát các phương án sản xuất của từng doanh nghiệp trên địa bàn. Cụ thể, nếu xuất hiện F0, doanh nghiệp cần xử lý theo hướng có F0 tại phân xưởng nào thì phong toả phân xưởng đó, chứ không phong toả toàn bộ doanh nghiệp. Sau khi đưa F0 và F1 đi cách ly thì thực hiện phun khử khuẩn và làm vệ sinh phân xưởng để 24h sau đó có thể đưa lực lượng mới vào sản xuất. Phương án này đã triển khai rất hiệu quả tại Bắc Ninh.

Thứ ba, Bộ Y tế  đã tham mưu cho Ban chỉ đạo quốc gia đề ra các văn bản như: Nghị quyết 21/NQ-CP về việc mua và sử dụng vaccine phòng COVID-19, Nghị quyết 105/NQ-CP năm 2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19, Quyết định số 3355/QĐ-BYT ngày 8/7/2021.

Đến nay, đối tượng ưu tiên tiêm vaccine có lao động của doanh nghiệp. Chúng tôi sẽ cố gắng tiêm chủng đạt tỷ lệ cao trong thời gian tới để doanh nghiệp sớm hoạt động lại trong tình hình bình thường mới. Ban Chỉ đạo quốc gia và Bộ Y tế đã có hướng dẫn, theo đó cần có thống kê chi tiết số lượng người lao động cần tiêm của từng doanh nghiệp, kế hoạch tiêm chủng của địa phương để gửi về Bộ Y tế, từ đó có cơ sở để phân bổ vaccine cho các địa phương.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng, hiện Bộ Y tế  đang dự thảo hướng dẫn tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”. Dự thảo đang được xin ý kiến các thành viên Ban chỉ đạo và sẽ được sớm ban hành. Đây cũng là giải pháp căn cơ để doanh nghiệp bước vào sản xuất trong tình hình mới.

 

Tổng Giám đốc Nestlé Việt Nam Binu Jacob tin tưởng rằng Việt Nam đã chứng tỏ sức hút mạnh mẽ với vai trò là điểm đến đầu tư trong tầm nhìn dài hạn và bền vững - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Có mặt tại Việt Nam hơn 25 năm qua, được biết Nestlé Việt Nam luôn cam kết đi tiên phong trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững với triết lý tập đoàn hàng đầu thế giới gắn kết và thấu hiểu địa phương. Xin ông Binu Jacob chia sẻ lý do chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư và những thuận lợi, khó khăn khi đầu tư tại Việt Nam?

Tổng Giám đốc Nestlé Việt Nam Binu Jacob: Tập đoàn Nestlé chính thức trở lại Việt Nam với việc thành lập Công ty TNHH Nestlé Việt Nam vào năm 1995 và liên tục mở rộng đầu tư, đa dạng hóa các sản phẩm. Tính đến nay, tổng vốn đầu tư của Nestlé vào Việt Nam đạt 730 triệu USD. Chúng tôi tuyển dụng 2.200 lao động và vận hành 4 nhà máy cùng 2 trung tâm phân phối. Chúng tôi có 3 nhà máy đang hoạt động tại tỉnh Đồng Nai và một nhà máy tại tỉnh Hưng Yên.

Hằng năm Nestlé đồng hành cùng nông dân trồng cà phê Việt Nam thực hành canh tác bền vững và đưa vào nền kinh tế khu vực nông thôn 700 triệu USD thông qua hoạt động thu mua cà phê bền vững. Chúng tôi tự hào là một trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiên phong đóng góp vào sự tăng trưởng bền vững và bao trùm của Việt Nam.

 

Nestlé là tập đoàn hàng đầu thế giới về sản xuất thực phẩm và hàng tiêu dùng nhanh. Và chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam đã chứng tỏ sức hút mạnh mẽ với vai trò là điểm đến đầu tư trong tầm nhìn dài hạn và bền vững thông qua các yếu tố:

 

Thứ nhất, nền chính trị ổn định và linh hoạt: đây là yếu tố hàng đầu thu hút một nhà đầu tư FDI. Không chỉ như vậy, Chính phủ Việt Nam cũng chứng tỏ sự quyết đoán trong điều hành và không ngần ngại đưa ra quyết định can đảm và mạnh mẽ trong nhiều hoàn cảnh.

 

Thứ hai, vị trí địa lý chiến lược: Việt Nam nằm ở một vị trí vô cùng trung tâm trong khu vực Đông Nam Á với một đường bờ biển dài. Đất nước sở hữu lợi thế vô cùng lớn với các tuyến thương mại quan trọng trên thế giới.

 

Thứ ba, lực lượng lao động trẻ dồi dào: Việt Nam với quy mô dân số xấp xỉ 100 triệu người nằm trong nhóm 15 quốc gia đông dân nhất trên thế giới mà có “cấu trúc dân số vàng”, có nghĩa là cứ hai người lao động sẽ chăm lo cho chỉ một người phụ thuộc.  Với ưu điểm này, Việt Nam có một cơ hội phát triển kinh tế xã hội không phải ai cũng có và các bạn cần phải khai thác tốt điểm này.

 

Thứ tư, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu: chỉ trong vài năm trở lại đây, Chính phủ Việt Nam đạt được nhiều thành công trên mặt trận hội nhập kinh tế quốc tế với viêc gia nhập một loạt các hiệp định thương mại tự do và cộng đồng kinh tế có thể kể:  Tổ chức Thương mại Thế giới, Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam, Cộng đồng Kinh tế ASEAN…

 

Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho: Việt Nam đang cung cấp một môi trường đầu tư hấp dẫn… - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Là nhà đầu tư kinh doanh tại Việt Nam trong nhiều năm, xin ông chia sẻ một số thông tin về hoạt động kinh doanh của Samsung tại đây và đánh giá của ông đối với môi trường đầu tư của Việt Nam?

Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho: Samsung Việt Nam hiện tại đang vận hành 6 nhà máy sản xuất tại các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên và TPHCM, một trung tâm nghiên cứu phát triển R&D tại Hà Nội và một pháp nhân bán hàng. Samsung đã chính thức đầu tư vào Việt Nam từ năm 2008 với tổng số vốn đầu tư trên 17,7 tỷ USD.

Hiện tại Samsung Việt Nam đang vượt qua vai trò cứ điểm sản xuất trọng điểm toàn cầu tại Việt Nam, chúng tôi đang xây dựng Trung tâm nghiên cứu và phát triển riêng Samsung tại Hà Nội với quy mô đầu tư lên tới 220 triệu đô la, nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển trung và dài hạn. Hiện Trung tâm xây dựng mới nghiên cứu và phát triển đã hoàn thành tiến độ trên 50%, dự kiến sẽ khánh thành vào cuối năm 2022.

Khi Trung tâm nghiên cứu và phát triển này đi vào hoạt động, số lượng kỹ sư Việt Nam từ 2.100 người trong hiện tại sẽ mở rộng lên tới 3.000 người, dự kiến sẽ nghiên cứu về các mảng trí tuệ nhân tạo, 5G, cơ sở dữ liệu lớn và internet vạn vật. Về mặt dài hạn, trung tâm nghiên cứu và phát triển của Samsung được kỳ vọng sẽ đóng góp vào việc nâng cao năng lực ngành công nghệ thông tin cũng như năng lực cạnh tranh trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 của Việt Nam.

Mặc dù trong làn sóng dịch bệnh COVID-19 diễn ra từ cuối tháng 4 vừa qua, trong 6 tháng đầu năm, Samsung vẫn thuận lợi trong việc đạt mục tiêu xuất khẩu. Nếu nhà máy sản xuất điện gia dụng tại TPHCM nhanh chóng hoạt động bình thường trở lại thì dự kiến công ty sẽ vượt mục tiêu xuất khẩu năm nay.

Tôi xin nói về môi trường đầu tư của Việt Nam.

Không chỉ đối với Samsung mà đối với tất cả các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang cung cấp một môi trường đầu tư hấp dẫn như nguồn lao động dồi dào, tình hình chính trị xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng sản xuất và lưu thông cùng các ưu đãi đầu tư.

Gần đây, có nhiều ảnh hưởng tiêu cực phát sinh do đại dịch COVID-19, tuy nhiên, về lâu dài, Việt Nam vẫn là điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà  đầu tư nước ngoài.

Đặc biệt, Nghị quyết số 105/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19 gần đây Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là một tin vui đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Theo đúng chiến lược của Thủ tướng Chính phủ, nếu Việt Nam đồng thời vừa thực hiện các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả vừa tăng cường các điều kiện thuận lợi để lưu thông, sản xuất, duy trì mạng cung ứng ổn định thì dự kiến đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục được duy trì và tăng trưởng trong thời gian tới.
 

Trong bối cảnh dịch COVID-19 kéo dài làm gián đoạn chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, Chính phủ đã có những giải pháp, chính sách gì để tháo gỡ khó khăn và chia sẻ với các nhà đầu tư nước ngoài, để họ yên tâm đầu tư lâu dài, bền vững tại Việt Nam? Và xin bà cho biết thêm đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp FDI về môi trường đầu tư tại Việt Nam hiện nay?

 

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc: Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để kiểm soát, đẩy lùi dịch bệnh cũng như hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp thông qua nhiều nghị quyết, nghị định về miễn giảm thuế, phí; giãn, hoãn các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có nhiều chỉ thị để kịp thời chỉ đạo, điều hành nhanh chóng với tình hình chống dịch.

 

Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 2 Tổ công tác đặc biệt do 2 Phó Thủ tướng làm Tổ trưởng để rà soát khó khăn, vướng mắc và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư. 

 

Mới đây, Bộ KH&ĐT đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19. 

 

Chính phủ cũng đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương cụ thể hóa, thống nhất tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn lộ trình mở cửa sản xuất và các hoạt động kinh tế xã hội ngay trong cuối tháng 9 này.

 

Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là doanh nghiệp là chủ thể, trung tâm; đầu mối giải quyết là các địa phương; Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương sẽ đồng hành, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất về cơ chế, chính sách để doanh nghiệp duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất.

 

Vừa qua, Bộ KH&ĐT đã chủ trì, phối hợp cùng Liên minh Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF), các hiệp hội doanh nghiệp thành viên tiến hành điều tra khảo sát hơn 500 tập đoàn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, đại dịch COVID-19 có tác động tiêu cực đến doanh nghiệp. 

 

Cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc ứng phó với dịch bệnh, bày tỏ sự lạc quan vào khả năng phục hồi kinh tế của Việt Nam và cam kết tiếp tục đầu tư, kinh doanh lâu dài, nhất là khi Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng lộ trình thích ứng an toàn, xác định quan điểm mới về chống dịch.

 

Qua khảo sát, có 67% số doanh nghiệp châu Âu đánh giá tích cực về triển vọng môi trường kinh doanh Việt Nam. Doanh nghiệp Nhật Bản bày tỏ sự lạc quan vào khả năng kinh tế Việt Nam phục hồi sớm trong năm 2021, trong đó 47% có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.

 

Doanh nghiệp Hàn Quốc đều có kế hoạch đầu tư mới tại Việt Nam. Phần lớn doanh nghiệp Hoa Kỳ đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc ứng phó với dịch bệnh, tin tưởng Việt Nam sẽ sớm khống chế dịch bệnh.

 

Những tín hiệu tích cực này đã cho thấy sự lạc quan, tin tưởng về khả năng phục hồi phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ của Việt Nam thời gian tới. Đồng thời, khẳng định Việt Nam vẫn sẽ là điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn và tiềm năng đối với các nhà đầu tư.

 

Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục nỗ lực để nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh, sớm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại bình thường, để tránh gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung ứng.

 

Mặc dù có nhiều khó khăn, gần đây Tập đoàn Nestle vẫn có quyết định tiếp tục mở rộng các hoạt động đầu tư bền vững tại Việt Nam, với khoản đầu tư mới trị giá hơn 130 triệu USD. Ông có thể chia sẻ về quyết định này?

 

Tổng Giám đốc Nestlé Việt Nam Binu Jacob: Tác động của đại dịch COVID-19 từ năm ngoái đến nay làm cho doanh nghiệp trong ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thách thức. Doanh nghiệp của chúng tôi cũng gặp phải nhiều vấn đề do tác động của đợt dịch bệnh lần này đến từ nhu cầu tiêu dùng giảm, vấn đề an toàn tại nơi làm việc, thiếu nhân công và nhất là đứt gãy chuỗi cung ứng. Có khoảng 1.200 nhân viên của chúng tôi đang thực hiện phương án “3 tại chỗ” đồng thời áp dụng nghiêm ngặt nguyên tắc 5K tại nhà máy của Nestlé Việt Nam hơn 2 tháng qua. Việc này đã gây ra nhiều thách thức đối với khâu vận hành cũng như gây ảnh hưởng lên các nhân viên tại đây, dẫn đến chi phí tăng và năng suất lao động giảm. Một số địa phương áp dụng nghiêm ngặt các quy định phòng chống dịch cũng gây gián đoạn cho chuỗi cung ứng của chúng tôi.

 

Đặt trong một bối cảnh như thế, chúng tôi đã đề ra chiến lược gồm 3 ưu tiên chính, đó là: 1) Sự an toàn của nhân viên, 2) Đảm bảo tính liên tục trong kinh doanh và 3) Thực hiện các chương trình và hoạt động hỗ trợ cộng đồng phòng chống đại dịch.

 

Hơn hết, chúng tôi tin tưởng vào tương lai của Việt Nam với vai trò là trung tâm sản xuất toàn cầu & khu vực và chúng tôi vẫn tiếp tục mở rộng các hoạt động đầu tư bền vững tại Việt Nam. Việt Nam đang được xem là trung tâm sản xuất các mặt hàng điện tử và may mặc, da giày cho thế giới. Vậy thì chúng tôi tự đặt ra câu hỏi làm cách nào để đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất các mặt hàng thực phẩm và thức uống đóng gói cho cả thế giới vì với lực lượng lao động giỏi tay nghề và tinh thần làm việc cống hiến, hệ thống vận hành của Nestlé Việt Nam được ghi nhận đang nằm trong nhóm hiệu quả và linh động hàng đầu đối với tất cả thị trường mà tập đoàn Nestlé đang có mặt.

 

Tập đoàn Nestlé tiếp tục đầu tư 132 triệu USD trong hai năm để tăng gấp đôi công suất sản xuất cà phê hòa tan phục vụ xuất khẩu và để trở thành trung tâm sản xuất các sản phẩm thực phẩm dạng lỏng chuyên cung ứng cho thị trường xuất khẩu ở khu vực châu Á và Úc.

 

Với tầm nhìn trên, nhà máy Nescafé Trị An đặt tại Đồng Nai sẽ trở thành một trong những nhà máy cà phê lớn nhất trên thế giới chuyên cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường các nước phát triển, có thể kể là Nhật, các quốc gia Bắc Mỹ và châu Âu.

 

Trong thời gian qua, các tỉnh phía nam và Đồng Nai đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19. Là địa phương có nhiều khu công nghiệp nên tỉnh sẽ phải tập trung nhiều hơn vào việc phòng chống dịch cũng như hỗ trợ đồng hành cùng các DN nói chung và DN FDI nói riêng. Vậy xin bà chia sẻ, tỉnh đã lắng nghe tiếng nói doanh nghiệp như thế nào trong những tháng ngày khó khăn này? Đồng thời các chính sách, kế hoạch cụ thể để đồng hành, hỗ trợ cùng cộng đồng DN FDI trên địa bàn?

 

Phó Chủ tịch UBDN tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng: Thời gian qua, các tỉnh phía Nam và Đồng Nai đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19, tỉnh đã lắng nghe, nắm tình hình khó khăn của doanh nghiệp.

 

Các nội dung doanh nghiệp phản hồi như: Thiếu hụt nguồn vốn sản xuất kinh doanh; thiếu hụt nguồn nguyên liệu trong nước và nguồn nguyên liệu nhập khẩu; hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được.

 

Dịch khiến cho 558 dự án tạm dừng hoạt động với tổng số lao động khoảng 491.725 người và 58 doanh nghiệp phải dừng thực hiện phương án 3 tại chỗ (5.323 lao động) do không thể tiếp tục (hết đơn hàng, người lao động không muốn tiếp tục 3 tại chỗ, không đủ kinh phí duy trì 3 tại chỗ).

 

Cùng với những chủ trương, chính sách, định hướng của Trung ương, Đồng Nai áp dụng vào tình hinh thực tế của tỉnh để đưa ra những giải pháp đồng hành, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó thường xuyên theo dõi, phối hợp các cấp, các ngành trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện phương án ”3 tại chỗ”, “2 địa điểm, một cung đường”,

 

Ngày 15/9/2021, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Kế hoạch số 11102/KH-UBND đảm bảo công tác phòng chống dịch COVID-19 tại Đồng Nai trong tình hình mới nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân khôi phục dần các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo an toàn phòng chống dịch, qua đó góp phần giữ vững ổn định tăng trưởng kinh tế, phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh khi dịch bệnh được kiểm soát.

 

UBND tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, chính quyền địa phương các cấp chủ động xây dựng Kế hoạch từng bước phục hồi các hoạt động kinh tế - xã hội thuộc lĩnh vực, địa bàn do mình phụ trách; chịu trách nhiệm bảo vệ và mở rộng vùng xanh, kiểm soát hiệu quả vùng vàng, vùng cam, vùng đỏ.

 

Sau khi ban hành Kế hoạch trên, ngày 18/9 Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chủ trì Hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh, các Hiệp hội doanh nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Eurocharm. Qua đó, lắng nghe những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp, những vấn đề doanh nghiệp chưa hiểu về Kế hoạch phục hồi kinh tế của tỉnh, để giải đáp, cũng như tiếp thu những kiến nghị, đề xuất của doanh nghiệp để vừa hoạt động sản xuất, vừa chống dịch.

 

Ngoài ra, hiện nay tỉnh Đồng Nai đang xây dựng kế hoạch phục hồi kinh tế, trên cơ sở đảm bảo đủ điều kiện để sống an toàn với dịch COVID-19. Tỉnh phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng ngành, trong đó tập trung ưu tiên cho những nhiệm vụ quan trọng để từng bước ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh, khôi phục lại nền kinh tế. Ưu tiên thành lập Ban chỉ đạo phục hồi kinh tế tỉnh Đồng Nai, thành lập Tổ công tác đặc biệt nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp.

 

Trong bối cảnh COVID-19 còn nhiều khó khăn và thách thức, liệu rằng Samsung Việt Nam sẽ có những thay đổi trong chiến lược đầu tư và kinh doanh tới đây không?  Nếu có, những thay đổi ấy là gì?

 

Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho: Samsung Việt Nam đã không thay đổi chiến lược kinh doanh do đại dịch COVID-19. Như trong tháng 5 và tháng 6 vừa qua khi làn sóng COVID lần thứ tư rất phức tạp tại Bắc Ninh và Bắc Giang, Samsung đã gặp phải nhiều khó khăn trong sản xuất điện thoại di động nhưng nhờ sự hỗ trợ toàn diện của Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành trung ương và chính quyền địa phương cũng như nhờ các biện pháp phòng chống dịch hiệu quả, chúng tôi đã khắc phục được khó khăn.

 

Đặc biệt, tỉnh Bắc Ninh là địa phương đầu tiên trên cả nước thực hiện chính sách 3 tại chỗ, vì vậy Samsung đã có thể duy trì sản xuất mà không phải đóng cửa nhà máy. Ban quản lý Khu công nghiệp của Bắc Ninh cũng đã hỗ trợ toàn diện để các chuyên gia Hàn Quốc của công ty có thể nhập cảnh nhanh chóng, nên chúng tôi đã không gặp trở ngại nào về phát triển và sản xuất hàng hoá.

 

Trên cơ sở là sự tự tin tích luỹ được sau khi khắc phục những khủng hoảng này cùng với sự tin tưởng vào Chính phủ Việt Nam, chúng tôi đang liên tục mở rộng đầu tư. Cho đến thời điểm hiện tại, Samsung đã giải ngân toàn bộ vốn đầu tư đã được phê duyệt và hằng năm, chúng tôi vẫn duy trì đầu tư bổ sung hàng trăm triệu USD.

 

Trong thời gian tới, chúng tôi dự kiến tiếp tục đầu tư nhằm mục tiêu ổn định vận hành nhà máy, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Cụ thể, hằng năm chúng tôi vẫn đang đầu tư thiết bị sản xuất cho 6 nhà máy và đa dạng hoá các hạng mục sản xuất như thiết bị 5G hay máy tính xách tay.

 

Như phần đầu tôi cũng đã đề cập, nếu như trước đây Samsung đầu tư chủ yếu vào dây chuyên sản xuất thì trong thời gian tới chúng tôi sẽ nâng cao vị thế kinh doanh tại Việt Nam của công ty lên một tầm cao mới, trở thành cứ điểm nghiên cứu và phát triển chiến lược thông qua việc xây dựng Trung tâm nghiên cứu và phát triển.

 

Vừa qua tỉnh Bắc Ninh đã nỗ lực và đạt kết quả tốt trong công tác kiểm soát dịch COVID-19. Ông có thể chia sẻ những kinh nghiệm phòng chống dịch trong việc giữ vững, duy trì hoạt động cho những doanh nghiệp FDI trên địa bàn? Tỉnh đã làm gì để có thể đạt được niềm tin của các nhà đầu tư?

 

Phó Chủ tịch UBND Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn: Bước vào năm 2021, chúng tôi có rất nhiều kỳ vọng. Tuy nhiên, đầu tháng 5/2021 khi Bắc Ninh là địa phương đầu tiên hứng chịu đợt dịch thứ 4 thì rất nhiều khó khăn. Cùng lúc đó, Bắc Giang cũng bùng phát dịch. Bắc Ninh và Bắc Giang có mối liên hệ rất mật thiết với nhau về địa lý và các khu sản xuất.

 

Bắc Ninh có 10 khu công nghiệp tập trung, 26 cụm công nghiệp với 450.000 công nhân. Trong đó, số lao động tại địa phương chỉ 24,4%, còn lại lưu trú ở địa bàn khác. Trong 3 tuần đầu bùng phát dịch, tỷ lệ mắc bệnh từ 11% tăng lên đến 23%. Chúng tôi xác định nếu không quyết liệt dập dịch, sớm ổn định cuộc sống thì phải đóng cửa tất cả các khu công nghiệp và các nhà máy. Muốn duy trì sản xuất thì công nhân phải được ăn, ở tại chỗ. Lúc đó, Bắc Ninh là địa phương đầu tiên triển khai phương án “3 cùng”.

 

Là địa phương đầu tiên triển khai kế hoạch này, chúng tôi cũng gặp nhiều vướng mắc vì đa số doanh nghiệp trước đây không có khu lưu trú cho công nhân. Nhưng nếu không thực hiện được việc này thì không thể cô lập dịch ở cả các nhà máy và khu dân cư.

 

Ngày 26/5, UBND tỉnh Bắc Ninh ra thông báo kết luận đề nghị các doanh nghiệp thực hiện biện pháp này. Đây là phương án để không phải đóng cửa các nhà máy nên đòi hỏi doanh nghiệp cùng chia sẻ với tỉnh, cũng như kêu gọi công nhân chia sẻ với các nhà máy.

 

Sau đó, tỉnh thành lập 40 tổ công tác trực tiếp kiểm tra điều kiện an toàn của doanh nghiệp. Chúng tôi quyết định 50% số lượng công nhân được sàng lọc “sạch” về y tế đưa vào nhà máy sản xuất ngay. Còn số lượng 50% công nhân còn lại có phương án quản lý chặt chẽ tại cộng đồng dân cư và khu lưu trú để sẵn sàng thay thế nếu dịch kéo dài.

 

Với những biện pháp đồng bộ như vậy, ban đầu có 500 doanh nghiệp đã tăng lên 1000 doanh nghiệp đăng ký thực hiện việc này. Qua 8 ngày (từ ngày 2/6 đến 20/6) dịch đã được khống chế và đưa sản xuất trở lại tương đối ổn định.

 

Qua kinh nghiệm chống dịch, chúng tôi thấy việc hỗ trợ phục hồi sản xuất rất quan trọng. Chúng tôi đã thành lập tổ phản ứng nhanh do Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh làm tổ trưởng, chúng tôi gọi là tổ “3 nhất”: Tư vấn hiệu quả nhất, giải quyết nhanh nhất, chống dịch an toàn nhất. Như vậy, dù trong lúc dịch căng thẳng nhất nhưng các nhà máy vẫn hoạt động công suất từ 50% trở lên. Chúng tôi cũng tạo điều kiện tối đa để tiêm phòng cho công nhân và thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho các công nhân, kể cả không có hợp đồng lao động.

 

Qua 2 tháng là tâm dịch của cả nước nhưng giá trị sản xuất công nghiệp của Bắc Ninh vẫn tăng trưởng rất tốt. Qua 9 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 11,74%, riêng công nghiệp điện tử tăng 37,3%. Thu hút đầu tư trong 9 tháng từ khu vực FDI cũng đạt hơn 650 triệu USD, tăng 1,5 lần so với năm 2020. Chúng tôi dự kiến nếu ổn định tình hình thì đến cuối năm sẽ đạt hơn 2 tỷ USD cả năm từ thu hút đầu tư FDI.

 

Thưa Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên, việc chống dịch trong các khu công nghiệp, các nhà máy là rất quan trọng. Xin ông cho biết những tháo gỡ khó khăn vướng mắc của ngành y tế để giúp các doanh nghiệp tổ chức sản xuất, không để đứt gãy chuỗi sản xuất?

 

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Dịch COVID-19 không chỉ xuất hiện tại cộng đồng, mà còn xuất hiện tại các doanh nghiệp. Mối quan hệ biện chứng giữa cộng đồng và doanh nghiệp trong vấn đề dịch bệnh hết sức khăng khít với nhau. Chính vì thế, ngoài vấn đề làm tốt công tác phòng, chống dịch tại cộng đồng, chúng ta phải làm tốt công tác chống dịch tại doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu kép, vừa phát triển kinh tế vừa phòng, chống dịch. Có như vậy mới có nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch. Và nếu phòng chống dịch tốt thì chúng ta tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Từ đó có nguồn lực quay trở lại cho công tác phòng, chống dịch.

 

Năm 2020 và 2021, Bộ Y tế đã trình Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 quốc gia ban hành Công văn 2194 về công tác chống dịch trong khu công nghiệp; đặc biệt Bộ Y tế ban hành Quyết định 2787 quy định cụ thể rõ ràng các biện pháp chống dịch trong doanh nghiệp và nhà máy, xí nghiệp. Cùng với hai văn bản cốt lõi nêu trên, Bộ Y tế cũng như Ban Chỉ đạo quốc gia đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến vấn đề an toàn phòng chống dịch trong lưu thông hàng hóa, đảm bảo an toàn phòng, chống dịch ở các trung tâm thương mại, các chợ, khu chế xuất. Từ các hướng dẫn của Bộ Y tế, các địa phương trong thời gian vừa qua đã vận dụng linh hoạt trong công tác phòng, chống dịch, căn cứ vào đánh giá mức độ nguy cơ dịch tới từng địa bàn cấp xã, cấp huyện, từ đó hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, phương án để đảm bảo sản xuất trong điều kiện phòng, chống dịch.

 

Như Phó Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh đã có ý kiến, trong đợt dịch thứ 4, Bộ Y tế cùng tỉnh Bắc Ninh đã triển khai thí điểm phương án “3 tại chỗ”; “2 điểm đến 1 cung đường”. Sau khi triển khai thí điểm tại Bắc Binh, chúng tôi thấy rằng công tác phòng chống dịch với phương thức sản xuất như vậy đem lại hiệu quả rất căn cơ cho các doanh nghiệp. Trong đợt dịch thứ 4 này, đối với các tỉnh nhiều khu công nghiệp, nhiều doanh nghiệp, chúng tôi cũng đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương áp dụng một cách linh hoạt phương án “3 tại chỗ”; “2 điểm đến 1 cung đường”. Từ đó các doanh nghiệp đã xây dựng phương án phòng chống dịch hết sức cụ thể, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt; đồng thời xây dựng phương án cụ thể cho  “3 tại chỗ”. Từng doanh nghiệp, từng nhà máy có phương thức, cách làm khác nhau, đảm bảo nguyên tắc là an toàn phòng, chống dịch để sản xuất.

 

Phương án “2 điểm đến 1 cung đường” có sự phối hợp chặt chẽ giữa địa phương với doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp bố trí địa điểm cho công nhân ăn ở tập trung, hỗ trợ bố trí phương tiện đưa công nhân từ nơi ở đến nơi làm việc để làm sao an toàn, công nhân chỉ từ nơi ở di chuyển đến nơi làm việc, sau đó về nơi ở.  Có như vậy mới đảm bảo công tác phòng, chống dịch.

 

Hai phương án tùy theo điều kiện từng địa phương, điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp để chọn thực hiện an toàn, hiệu quả.

 

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong diễn biến mới hiện nay, Bộ Y tế đang lấy ý kiến để trình Ban Chỉ đạo quốc gia ban hành hướng dẫn về công tác phòng, chống dịch trong điều kiện mới với nguyên tắc thích ứng an toàn, linh hoạt và hiệu quả. Hướng dẫn này gồm đầy đủ các yếu tố như phòng chống dịch trong điều kiện bình thường; phòng, chống dịch đảm bảo sản xuất trong điều kiện nhà máy xuất hiện ca F0; hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc xét nghiệm đặc biệt là tự xét nghiệm và tự chịu trách nhiệm về việc công bố kết quả xét nghiệm. Việc này Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo và cùng với tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo thực hiện thí điểm ở một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Công nhân tự lấy mẫu xét nghiệm, báo cho cơ sở y tế. Phương án này cần sự giám sát chặt chẽ của cơ sở y yế, đảm bảo chất lượng test kit, đảm bảo khi có trường hợp nghi ngờ, phát hiện thì khoanh vùng xử lý được ngay. Tôi cho rằng hướng dẫn này sẽ rất căn cơ và tương đối đầy đủ để doanh nghiệp ổn định và phát triển.

 

Xin Thứ trưởng cho biết các nhóm vấn đề khó khăn thách thức đối với khu công nghiệp, khu kinh tế mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã báo cáo Chính phủ và những cơ chế chính sách trong ngắn hạn và dài hạn để giải quyết các vấn đề đó?

 

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc: Trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, Bộ KH&ĐT đã chủ động làm việc với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế. Qua tổng hợp, có 6 nhóm vấn đề khó khăn mà các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế đang phải đối diện:

 

Thứ nhất, hoạt động tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bị trì hoãn, ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư của các khu công nghiệp, khu kinh tế.

 

Thứ hai, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế đa số là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động theo mô hình chuỗi cung ứng như điện thoại, may mặc, điện tử, giầy da… là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng tiêu cực do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, cũng như việc chúng ta tạm thời đóng cửa các nhà máy dẫn đến nhiều doanh nghiệp tìm đơn hàng hoặc điều chuyển đơn hàng sang một số doanh nghiệp khác.

 

Thứ ba là qua đại dịch, chúng ta thấy rằng việc xây dựng nhà ở cho người lao động đồng bộ với việc phát triển khu công nghiệp cũng như thu hút đầu tư là một vướng mắc nổi lên, gây khó khăn cho công tác phòng, chống dịch của Việt Nam.

 

Thứ tư là vấn đề nhập cảnh cho các chuyên gia, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc gia hạn giấy phép lao động hoặc cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài.

 

Thứ năm, doanh nghiệp gặp khó do vừa triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, vừa sản xuất kinh doanh nên môi trường cách ly tại chỗ nhiều nơi không bảo đảm, ảnh hướng rất lớn đến tâm lý người lao động.

 

Thứ sáu, hiện nay các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế gặp nhiều khó khăn do chi phí tăng cao bởi doanh nghiệp phải chịu các chi phí liên quan đến xét nghiệm, chi phí đầu vào tăng cao, khó khăn về dòng tiền…

 

Tất cả khó khăn trên đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời giải quyết bằng các nghị quyết của Chính phủ. Chúng tôi cho rằng trong thời gian tới có mấy nhóm giải pháp mà chúng ta phải tập trung:

 

Nhóm giải pháp thứ nhất mang tính cấp thiết và cần triển khai ngay là chúng ta phải triển khai có hiệu quả Nghị quyết 105 của Chính phủ với tinh thần trách nhiệm cao, tập trung xử lý các điểm nghẽn, ách tắc với phương châm sớm nhất, hiệu quả nhất để giảm tác động tiêu cực đối với doanh nghiệp.

 

Thứ hai là tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các tổ công tác đặc biệt của Thủ  tướng Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Thời gian qua, Bộ KH&ĐTcũng đã tổ chức hàng loạt buổi làm việc trực tiếp đến doanh nghiệp để tìm hiểu các khó khăn, vướng mắc. Trên cơ sở đó, Bộ đã làm việc với các địa phương có liên quan cũng như các bộ, ngành. Mô hình xử lý này rất hiệu quả.

 

Nhóm giải pháp thứ ba là các điạ phương cần khẩn trương xây dựng và công bố ngay chương trình phục hồi kinh tế và kế hoạch mở cửa trong tình hình mới, doanh nghiệp chủ động nghiên cứu, thống nhất phương án, điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh, an toàn thì sản xuất, sản xuất phải an toàn. Địa phương cũng tăng cường đối thoại hơn nữa với cộng đồng doanh nghiệp để nắm bắt được những vướng mắc cụ thể của doanh nghiệp và xử lý thực chất những kiến nghị đó.

 

Về phía cộng đồng doanh nghiệp, chúng tôi đề nghị cộng đồng doanh nghiệp phát huy tính tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua khó khăn, phối hợp chặt chẽ cùng các địa phương để tìm ra các biện pháp hữu hiệu mở cửa dần dần, khôi phục sản xuất kinh doanh.

 

Đối với các nhóm giải pháp dài hạn tạo nền tảng cho khu công nghiệp, khu kinh tế được phục hồi, chúng tôi cho rằng có 4 nhóm giải pháp:

 

Thứ nhất, cần xác định phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế tiếp tục là mô hình và giải pháp quan trọng để thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới công nghiệp hoá đất nước, hài hoà giữa các vùng miền, bảo đảm phát triển bền vững.

 

Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế thông qua nâng cao hiệu lực, hiệu quả của mô hình một cửa tại chỗ gắn với vai trò các ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế.

 

Thứ ba là đối với các địa phương, cần rà soát và kiện toàn cơ quan quản lý Nhà nước tại các khu công nghiệp, khu kinh tế, trong đó triệt để phân cấp, uỷ quyền cho các  ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế để bảo đảm thực hiện cơ chế một cửa liên thông. Nhanh chóng triển khai các thủ tục đầu tư để tạo điều kiện cho doanh ngiệp sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

 

Giải pháp cuối cùng rất căn cơ là cần hoàn thiện hành lang pháp luật, quy định về khu công nghiệp, khu kinh tế. Hiện nay, Bộ KH&ĐT đã dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định 82 về khu công nghiệp, khu kinh tế, theo đó có 4 nhóm vấn đề cần phải tập trung:

 

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hoá chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý hiệu quả, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát bằng hệ thống pháp luật theo tinh thần các nghị quyết của Chính phủ.

 

Thứ hai là tiếp tục phát triển các điểm khu công nghiệp mới, ví dụ như khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp chuyên sâu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có dư địa đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.

 

Thứ ba, trong thời gian tới, việc phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế cũng như thu hút các dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế phải gắn với việc xây dựng nhà ở cho người lao động và các thiết chế đi kèm với phát triển nhà ở cho người lao động.

 

Cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước  của các cơ quan Trung ương, địa phương liên quan đến khu công nghiệp, khu kinh tế.

 

Trong thời gian tới, khi chúng ta thực hiện căn cơ các nhóm giải pháp ngắn hạn và dài hạn, môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam tiếp tục được nâng cao.

 

Qua đợt dịch này, bên cạnh tác động tiêu cực, chúng ta cũng có những tác động tích cực, như có dư địa để tiếp tục hoàn thiện  thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của công tác quản trị. Thứ hai, chúng ta sẽ thúc đẩy một số mô hình sản xuất kinh doanh mới như kinh tế số, chuyển đổi doanh nghiệp dựa trên nền tảng số, phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng như công nghiệp dược, tăng cường hệ thống năng lực y tế của địa phương… Đây cũng là điều kiện, dư địa để các nhà đầu tư tham gia vào các hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

 

Với kinh nghiệm và thực lực sẵn có, giai đoạn tới đây liệu Bắc Ninh có phải thay đổi phương thức để có thể thu hút nguồn lực FDI và hỗ trợ tốt hơn nữa cho những doanh nghiệp FDI đang làm ăn hiệu quả tại tỉnh?

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn: Trong thời gian tới, để Bắc Ninh tiếp tục là điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chúng tôi xác định kiên trì định hướng thu hút đầu tư với các nhà đầu tư theo phương châm Bắc Ninh là điểm đến đầu tư lớn.

 

Để môi trường đầu tư tích cực hơn, phục hồi sản xuất, mạnh dạn thu hút đầu tư,  Bắc Ninh sẽ tập trung vào các nội dung: Tạo điều kiện thuận lợi nhất về môi trường đầu tư, ưu đãi cho các nhà đầu tư; Phương châm “3 cao, 4 sẵn sàng” tiếp tục được triển khai, sẵn sàng về mặt bằng, hạ tầng đầu tư, cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi nhất về nguồn nhân lực, các cơ quan quản lý nhà nước sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư, thay đổi phương thức xúc tiến đầu tư, thu hút các nhà đầu tư theo đúng địa chỉ mà chúng ta mong muốn, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư một cách chủ động; có phương án thu hút đầu tư vào từng lĩnh vực thế mạnh của địa phương (công nghiệp điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…), tạo ra hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp về điều kiện sản xuất, phương tiện đi lại cho công nhân, điều kiện ăn ở cho công nhân, tháo gỡ cơ chế cho chuyên gia nhập cảnh vào Việt Nam…

 

Ngoài ra, thường xuyên lắng nghe, hỗ trợ thủ tục hành chính là việc vô cùng quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư.

 

Hiện nay, với khó khăn trong dịch bệnh, UBND tỉnh Đồng Nai chuẩn bị kế hoạch ra sao để vừa tạo điều kiện mở lại sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa bảo đảm yêu cầu thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch? Tỉnh có những ưu tiên gì cho các nhà đầu tư trog hoàn cảnh khó khăn như hiện nay?

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng: Từ ngày 9/7 tỉnh Đồng Nai thực hiện giãn cách xã hội. Thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian này đồng nghĩa với việc một số doanh nghiệp bắt đầu có ca bệnh và các doanh nghiệp tự động đóng cửa. Còn lại hơn 1.200 doanh nghiệp tiếp tục thực hiện “3 tại chỗ”, “một cung đường hai điểm đến” hoặc kết hợp hai phương án này với khoảng 140.000 lao động.

 

Đến ngày 15/9, tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cơ bản được kiểm soát. Chúng tôi ban hành Kế hoạch 11102, bắt đầu tháo gỡ dần hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cũng như ngoài khu công nghiệp.

 

Theo kế hoạch này, đối với những doanh nghiệp 3 tại chỗ, chúng tôi bắt đầu cho phương thức tháo dần việc 3 tại chỗ vì các doanh nghiệp 3 tại chỗ trong một thời gian dài thì công nhân phần nào cũng bị ảnh hưởng về tư tưởng cũng như tâm lý.

 

Chúng tôi cho tháo dần có nghĩa là cho tối đa là 20% số công nhân 3 tại chỗ được đi về nhà hằng ngày bằng phương tiện cá nhân. Chúng tôi trao quyền chủ động cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ lựa chọn các phương án trong kế hoạch chúng tôi đã đề ra, làm sao cảm thấy thực sự an toàn thì mới sản xuất. Có nghĩa là chúng tôi trao quyền chủ động cho doanh nghiệp chứ không bắt buộc doanh nghiệp phải sản xuất hay ngừng sản xuất. Doanh nghiệp tự chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất của mình theo các phương thức mà doanh nghiệp chọn. Và chúng tôi cũng đồng ý cho doanh nghiệp trước đây ngừng sản xuất, bây giờ bắt đầu sản xuất vẫn được, hoặc cho xe đưa rước công nhân đi về hằng ngày hoặc cho công nhân tự đi bằng phương tiện cá nhân của mình hoặc doanh nghiệp thực hiện 3 tại chỗ. Chúng tôi cho 3 phương án để các doanh nghiệp lựa chọn. Chúng tôi chỉ có một yêu cầu là khi công nhân đi làm trong doanh nghiệp thì bắt buộc công nhân phải ở vùng xanh, vùng xanh đi đến vùng xanh. Chúng tôi đề ra điều kiện này để doanh nghiệp tự chủ động xây dựng và chúng tôi hỗ trợ tiếp tục tiêm cho những công nhân chưa tiêm vaccine. Thứ hai, chúng tôi hỗ trợ cơ sở để test nhanh cho doanh nghiệp với giá cả hợp lý. Thứ ba, chúng tôi trao chủ động cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể là tự test, chúng tôi không bắt buộc phải đến cơ sở y tế. Chúng tôi vẫn khuyến khích doanh nghiệp nếu có đội ngũ y tế thì có thể tự test cho công nhân của mình theo quy định Bộ Y tế ban hành.

 

Khi doanh nghiệp xảy ra F0 thì chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp để xử lý, trị bệnh F0, đưa các F1 đi cách ly và tiếp tục truy vết F2 trong doanh nghiệp. Ngoài ra, chúng tôi cũng hỗ trợ các thủ tục hành chính cũng như các vấn đề đi lại.

 

Đây là những nội dung chúng tôi thực hiện để các doanh nghiệp bước đầu đi vào sản xuất. Hiện nay có khoảng 100 hồ sơ của doanh nghiệp bắt đầu đăng ký đi vào sản xuất.

 

Ông có kiến nghị gì với Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như bộ, ngành để tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp FDI nói chung và Nestlé Việt Nam nói riêng?

 

Tổng Giám đốc Nestlé Việt Nam Binu Jacob: Kể từ khi chính thức đặt chân trở lại vào Việt Nam cách nay hơn 25 năm, tất cả hoạt động của Nestlé nhằm hiện thực cam kết nâng cao chất lượng cuộc sống và góp phần vào một tương lai khỏe mạnh hơn cho người Việt Nam.Với triết lý tập đoàn hàng đầu thế giới gắn kết và thấu hiểu địa phương, chúng tôi mang đến cho người Việt Nam công nghệ nghiên cứu và sản xuất hàng đầu thế giới của tập đoàn Nestlé đi cùng với sự cam kết và thấu hiểu nhu cầu thiết thân nhất của người dùng.

 

Trong suốt hành trình hơn hai thập kỷ qua, chúng tôi đã nhận được sự hỗ trợ và giúp sức vô cùng quý báu của Chính phủ, lãnh đạo các cơ quan, lãnh đạo bộ ban ngành và chính quyền địa phương của các tỉnh thành là Đồng Nai, Hưng Yên, TP. Hồ Chí Minh, Đắk Lắk.

 

Chúng tôi muốn chia sẻ những mối quan tâm và khuyến nghị có thể giúp Chính phủ thành công với các mục tiêu kép và làm tăng trưởng thu hút đầu tư FDI trong giai đoạn tái phục hồi nền kinh tế sau đại dịch.

 

Chúng tôi cam kết hỗ trợ các mục tiêu kép của Chính phủ là bảo vệ cuộc sống và sinh kế, nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu sức khỏe của người dân. Chuỗi những ngày giãn cách xã hội nghiêm ngặt đã bào mòn sức khỏe tinh thần của những người lao động và với cả những người phải ở trong nhà và làm việc từ xa. Chúng tôi ủng hộ định hướng chính sách chiến lược của Chính phủ là thích ứng “với virus một cách an toàn”, tái mở cửa nền kinh tế và thoát khỏi quy trình Chỉ thị 15 hoặc 16 hoặc các biện pháp hạn chế tương tự trong tương lai.

 

Sản xuất ngay bây giờ cần phải tái mở cửa thiết lập trạng thái "bình thường mới” đi cùng với kế hoạch rõ ràng và thời gian cụ thể. Các hoạt động kinh tế ở Việt Nam đang được quan tâm bởi các công ty FDI cũng như được so sánh với các nước trong khu vực. Để duy trì vị thế cạnh tranh trên khu vực cũng như trên toàn cầu thì chúng ta cần hành động ngay bây giờ. Các doanh nghiệp có hồ sơ theo dõi đã được chứng minh và kế hoạch rõ ràng cần được kích hoạt để đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với hoạt động và an toàn của người lao động và mở cửa trở lại khi họ có thể, với sự giám sát sau khi thực hiện. Mô hình sản xuất tại chỗ được thiết lập như một giải pháp tình thế trong giai đoạn dịch bệnh căng thẳng với mục tiêu đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất. Mô hình sản xuất này tuy vậy không bền vững đặc biệt đối với những dây chuyền nhà xưởng quy mô lớn, sử dụng số lượng lớn lao động như nhóm doanh nghiệp sản xuất, may mặc và thiết bị điện tử … 

 

Vaccine là yếu tố then chốt để cho phép tái mở cửa an toàn và phục hồi kinh tế. Chúng tôi rất cảm ơn vì Chính phủ đã ưu tiên TPHCM và Khu vực kinh tế phía Nam là khu vực ưu tiên về vaccine.

 

Sự phối hợp trên toàn quốc và giữa các tỉnh thành là rất quan trọng. Việc mỗi tỉnh thành đưa ra những quy định khác nhau chẳng hạn quy định về lấy mẫu xét nghiệm và tần suất xét nghiệm đối với người và hàng hóa lưu thông, hay cách ly y tế và giải quyết các trường hợp nhiễm bệnh, đã gây ra những đứt gãy về sản xuất và chuỗi cung ứng. Khi chúng ta tiến tới một trạng thái bình thường mới, sự phối hợp các chính sách trên toàn quốc vô cùng quan trọng.

 

Về vấn đề đó, chúng tôi hoan nghênh việc Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19 cũng như việc thành lập Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19 do Phó Thủ tướng Lê Minh Khái làm Tổ trưởng, phối hợp thực hiện.

 

Chúng tôi cam kết đóng góp cho những người cần được hỗ trợ ở Việt Nam. Tin tưởng rằng mỗi doanh nghiệp không nên quá quan tâm đến các mục tiêu kinh doanh và cần phải hành xử có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội, từ khi đại dịch bùng phát, chúng tôi đã hỗ trợ các lực lượng tuyến đầu, cộng đồng bị ảnh hưởng và hệ thống các bệnh viện với tổng giá trị lên đến 66 tỷ đồng gồm các sản phẩm dinh dưỡng, thiết yếu, trang thiết bi y tế, tiền mặt cũng như hưởng ứng Quỹ Vắc-xin phòng chống Covid-19 theo lời kêu gọi của Chính phủ. Chúng tôi cam kết tiếp tục đồng hành cùng Chính phủ và các đối tác trong hoạt động hỗ trợ cộng đồng này.

 

Chúng tôi cho rằng một trong các yếu tố quan trọng để một doanh nghiệp thành công chính là sự hỗ trợ đến từ chủ trương đúng đắn và hành động cụ thể của Chính phủ hành động khuyến khích doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khối tư nhân phát triển. Là một đơn vị tư nhân, FDI, chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực không ngừng nghỉ của Chính phủ trong cải thiện thể chế và làm cho môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng và lành mạnh hơn.

 

Chúng tôi cũng rất vui mừng khi Chính phủ chú ý lắng nghe những quan tâm và kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân mà buổi tọa đàm ngày hôm nay là một dẫn chứng nữa cho sự quan tâm đó. Chúng tôi xin cảm ơn vì đã được trao cho cơ hội được có mặt và tham gia đóng góp ý kiến tại đây.

 

Samsung có kiến nghị gì với Chính phủ và các cơ quan liên quan về các điều kiện để các công ty FDI, trong đó có Samsung, sản xuất kinh doanh tốt hơn?

 

Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung Việt Nam Choi Joo Ho: Samsung hoàn toàn ủng hộ chính sách của Chính phủ Việt Nam trong việc theo đuổi mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch hiệu quả” vừa “phát triển kinh tế”. Đặc biệt, chúng tôi hiểu về tính bất khả kháng của các biện pháp phòng chống dịch mạnh mẽ gần đây nhằm khống chế làn sóng dịch bệnh COVID-19 lần thứ 4.

 

Tuy nhiên, nếu các biện pháp phòng chống dịch mạnh tiếp diễn trong thời gian dài thì có thể gây ra các tổn thất kinh tế. Do đó, vừa theo đuổi mục tiêu kép “phòng chống dịch hiệu quả” và “tăng trưởng kinh tế” nhưng cũng cần liên tục kiểm tra về tính hài  hòa giữa 2 mục tiêu  này.

 

Ngoài ra, việc duy trì mạng cung ứng toàn cầu của các khu công nghiệp là yếu tố thiết yếu vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp đang vận hành các nhà máy sản xuất. Do đó, việc xây dựng chế độ bảo đảm “sản xuất không gián đoạn” trong bất cứ hoàn cảnh nào là điều rất cấp thiết.

 

Nghĩa là, chúng tôi xin được đề xuất dù trong bất cứ hoàn cảnh bất thường nào thì dây chuyền sản xuất của các nhà máy cũng không dừng hoạt động và vẫn vận hành theo đúng phương châm hướng dẫn chuẩn và lộ trình đã được định sẵn.

 

Ngoài ra, tôi cho rằng, nếu các tỉnh nơi tập trung chủ yếu các khu công nghiệp có thể thống nhất được một phương châm chuẩn về phòng dịch để việc lưu thông vận chuyển người và hàng hóa được diễn ra thuận lợi thì có thể giảm thiểu thiệt hại trong các tình huống bất thường như dịch bệnh COVID-19.

 

Gần đây, tôi được biết ở khu vực phía Bắc có thỏa thuận về xây dựng chính sách như trên, tôi hy vọng thỏa thuận này sẽ được diễn ra và mang lại những thành quả.

 

Quan điểm, định hướng của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài là phải gắn kết với phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta có lợi thế gì để thực hiện mục tiêu này?

 

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc: Sau 30 năm, khu vực kinh tế có vốn FDI là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, có nhiều đóng góp hiệu quả. Nhưng bên cạnh kết quả đạt được, cần thẳng thắn nhìn nhận hoạt động đầu tư FDI vẫn còn tồn tại hạn chế, vướng mắc…

 

Đó là tính tương tác của các DN trong nước và DN có vốn FDI còn hạn chế hiệu ứng lan toả về chuyển giao công nghệ không như kỳ vọng…

 

Chúng ta thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài nhưng cũng tập trung ưu tiên hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ như đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Quan điểm là không thu hút đầu tư bằng mọi giá, mà chú trọng vào chất lượng, hiệu quả và sự phát triển bền vững.

 

Theo đó, Việt Nam ưu tiên thu hút các dự án đầu tư nước ngoài từ xu hướng đa dạng hóa và tái định vị sản xuất thuộc các ngành công nghệ cao; đổi mới sáng tạo; có sự lan tỏa, trong đó nhà đầu tư cam kết hợp tác, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, gắn với hợp tác đào tạo nhân lực; nghiên cứu và phát triển; thúc đẩy kinh tế số và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của Việt Nam.

 

Gần đây nhất, Chính phủ đã có Nghị quyết số 115/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trong đó, mục tiêu đặt ra đến 2025 có khoảng 1.000 DN làm công nghiệp hỗ trợ đủ cung cấp cho các DN, tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam. Đến năm 2030, sẽ có 2.000 DN làm công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra, Chính phủ cũng có một số giải pháp hỗ trợ các DN trong nước có đủ điều kiện, năng lực thực hiện liên doanh liên kết với DN FDI.

Chúng tôi cho rằng con số đầu tư FDI tại Việt Nam trong 9 tháng 2021, cũng như kết quả thu hút FDI gần 30 năm qua, đã nói lên Việt Nam có nhiều lợi thế. 

 

Về lợi thế của Việt Nam, chúng ta có nhiều thế mạnh như: Vị trí địa lý chiến lược; chính trị - xã hội ổn định; tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định; chi phí sản xuất cạnh tranh; nguồn nhân lực trẻ, cơ cấu dân số vàng; thị trường tiềm năng, chính sách mở...

 

Thời gian vừa qua, Việt Nam cũng đã đạt được những thành công nhất định với “mục tiêu kép” về phòng chống dịch COVID-19 và phát triển kinh tế, được cộng đồng DN FDI và quốc tế đánh giá cao, là điểm đến tiềm năng trong chính sách đa dạng hóa nguồn cung ứng, chuyển dịch chuỗi sản xuất của các đối tác lớn.

 

Với chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng, sự quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, tôi tin tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp thu hút FDI sẽ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ và FDI tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam những năm tới.

 

Nhiều địa phương và DN có ý kiến về việc cần có hướng dẫn cụ thể về thích ứng an toàn linh hoạt với mọi diễn biến của dịch, đặc biệt là khi mở cửa lại nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại trạng thái bình thường mới. Mới đây, Bộ Y tế cho biết, trong điều kiện bình thường, Bộ đang dự kiến là phải bảo đảm “5 xanh”. Xin ông cho biết và hướng dẫn rõ thêm về vấn đề này?

 

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng về khôi phục sản xuất trong tình hình mới, Bộ Y tế đang xây dựng hướng dẫn theo nguyên tắc tôi đã nêu ở trên. 

 

Nhưng để sản xuất đảm bảo an toàn thì chúng tôi dự kiến phải thực hiện “5 xanh”: Địa bàn “xanh”, doanh nghiệp “xanh”, nơi ở “xanh”, vận chuyển công nhân từ nơi ở đến nơi làm việc “xanh”, công nhân “xanh” (tiêm đầy đủ vacine theo quy định hoặc nhiễm đã khỏi bệnh).

 

Để thực hiện tốt dự thảo này, chúng tôi đề nghị các địa phương: Sau khi hướng dẫn việc khôi phục sản xuất này được ban hành, địa phương phải quán triệt nghiêm túc đến các cấp, ngành và doanh nghiệp. Từ đó, địa phương cần rà soát lại phương án doanh nghiệp đã xây dựng trước đây để điều chỉnh bổ sung, thích ứng với tình hình hiện nay.

 

Địa phương cần tổ chức triển khai cùng doanh nghiệp phương án đã được phê duyệt. Theo đó, chỉ đạo hướng dẫn doanh nghiệp củng cố kiện toàn phòng y tế của các doanh nghiệp. Phòng y tế trong doanh nghiệp không chỉ theo dõi hằng ngày sức khoẻ cán bộ, tham gia khám chữa bệnh định kỳ mà khi diễn biến dịch tại địa phương, nhà máy có thay đổi thì cán bộ y tế ở đây đóng vai trò hết sức quan trọng. Họ phải tham mưu phương án chống dịch cùng doanh nghiệp và địa phương.

 

Chúng tôi cũng đang dự thảo việc giao cho doanh nghiệp tự chủ và tự chịu trách nhiệm về xét nghiệm và kết quả xét nghiệm. Việc này đã hướng dẫn tại Đồng Nai, ở đây cho thấy cán bộ y tế ở doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong liên kết với y tế địa phương. Nếu có nghi ngờ phải phản ánh kịp thời để khoanh vùng dập dịch với diện hẹp nhất là phân xưởng.

 

Về phía doanh nghiệp, chúng tôi đề nghị phải cam kết với địa phương về phương án đã xây dựng và được phê duyệt. Doanh nghiệp cần thực hiện tốt việc phòng chống dịch tại cơ sở của mình và đặc biệt hướng dẫn tốt thực hiện “5K” trong sản xuất và sinh hoạt của công nhân.

 

Doanh nghiệp cần lập danh sách người lao động cung cấp cho Sở Y tế địa phương để xây dựng kế hoạch tiêm vaccine theo tiến độ vaccine được cấp về địa phương.

 

Cuối cùng, để thực hiện tốt được kế hoạch khôi phục sản xuất thì địa phương và doanh nghiệp phải phối hợp chặt chẽ với nhau. Địa phương cần thành lập 1 tổ xử lý tình huống phát sinh cho doanh nghiệp trong trạng thái vừa sản xuất vừa chống dịch bệnh. Từ đó, những tình huống phát sinh trong sản xuất sắp tới mới được giải quyết lập tức ngay tại địa phương.

 

Chương trình phục hồi kinh tế sau dịch đang được Bộ KH&ĐT chủ trì xây dựng. Doanh nghiệp rất quan tâm đến tiến độ xây dựng chương trình, và nhất là dự kiến lộ trình cụ thể, các bước mở cửa trở lại. Thưa bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, bà có thể thông tin thêm để giải đáp mối quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và người dân nói chung? Những cam kết của Bộ trong việc đưa ra những cơ chế, chính sách thuận lợi nhất có thể để bảo đảm môi trường đầu tư?

 

Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc: Tại Hội nghị trực tuyến với cộng đồng doanh nghiệp và các địa phương về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh COVID-19 diễn ra ngày hôm qua do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì, các đại biểu đều thống nhất cao với chủ trương chuyển từ trạng thái “không COVID-19” sang trạng thái thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh để phục hồi phát triển kinh tế, ổn định thúc đẩy sản xuất kinh doanh, chống dịch để sản xuất, sản xuất để phục vụ chống dịch tốt hơn. Đó là thông điệp của cuộc họp ngày hôm qua.

 

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Bộ KH&ĐT đang khẩn trương trình Chính phủ xem xét ban hành Chương trình phục hồi kinh tế đến năm 2023, trong đó có nhóm các giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi. Chương trình này hướng tới 4 mục tiêu.

 

Mục tiêu thứ nhất là bắt kịp và tận dụng cơ hội từ xu hướng phục hồi nhanh của các nền kinh tế lớn trên thế giới.

 

Mục tiêu thứ hai là thúc đẩy cải cách cơ cấu và nâng cao hiệu lực, hiệu quả, sức cạnh tranh nội tại của nền kinh tế để chống chịu trước những cú sốc từ bên ngoài.

 

Thứ ba là góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện 3 đột phá chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025.

 

Cuối cùng là hỗ trợ việc làm, dịch chuyển cơ cấu lao động, nâng cao năng lực bền vững cho người lao động.

 

Trên cơ sở chương trình này các địa phương cũng đang xây dựng chương trình phục hồi kinh tế đến năm 2023 của địa phương để phù hợp với đặc thù của từng địa phương mình, từng vùng.

 

Về phía cộng đồng doanh nghiệp, các doanh nghiệp cũng như hiệp hội doanh nghiệp đã đóng góp nhiều sáng kiến, trong đó có nội dung liên quan đến phục hồi cho doanh nghiệp, phát huy sức mạnh của doanh nghiệp để làm thế nào vượt qua khó khăn, thách thức ở giai đoạn hiện nay. Khó khăn vướng mắc hiện nay mà các doanh nghiệp gặp phải là khó khăn, vướng mắc chung của tất cả các doanh nghiệp ở tất cả các quốc gia, không riêng gì Việt Nam. Chúng tôi cho rằng, với những chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc của các bộ, ngành và sự đồng lòng của doanh nghiệp, chúng ta sẽ sớm có giải pháp để kiểm soát dịch bệnh và tiếp tục phục hồi, tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả.

 

Lãnh đạo các bộ, địa phương có thông điệp gì gửi tới các nhà đầu tư nước ngoài?

 

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc: Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1986, đến nay đã trải qua hơn 30 năm.  Đảng, Nhà nước đều xác định khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế. Chính sách của Đảng, Nhà nước hướng tới, xuyên suốt là xây dựng một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế về thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

 

Thông điệp tôi muốn nói tới ở đây là bên cạnh tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19 thì cũng đem đến cho chúng ta cơ hội. Về phía Nhà nước, các cơ quan của Chính phủ, đây là dịp để chúng ta hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực quản trị, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để thúc đẩy thực hiện Chính phủ điện tử.

 

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Bộ Tư pháp cũng đang phối hợp với cơ quan liên quan xây dựng dự thảo dự án Luật dùng một luật để sửa nhiều luật, tiếp tục theo hướng hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Các bộ, ngành có liên quan tiếp tục rà soát điều kiện đầu tư kinh doanh để loại bỏ hoặc điều chỉnh những quy định không còn phù hợp, tạo điều kiện cho nhà đầu tư, doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường.

 

Qua đại dịch cũng là cơ hội để chúng ta phát triển các ngành mới, đó là kinh tế số, các ngành dược, nâng cao cơ sở y tế , nâng cao nguồn nhân lực… Đây cũng là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

 

Về phía doanh nghiệp, đây là thời điểm doanh nghiệp chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh và tái cấu trúc lại doanh nghiệp trên nền tảng số thông qua chuyển đổi số, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và mạnh dạn đổi mới, thích ứng với công nghệ. Đó là thông điệp mà chúng tôi muốn gửi gắm tới các nhà đầu tư nước ngoài.

 

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Trước diễn biến dịch hiện nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia đã chỉ đạo Bộ Y tế, các bộ, ngành có liên quan, các địa phương có giải pháp phòng chống dịch hết sức linh hoạt, hiệu quả, bảo đảm cho công tác phòng, chống dịch cũng như bảo đảm cho sản xuất.

 

Với thông điệp Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra là “thích ứng, an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch COVID-19”, tôi đề nghị các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài hãy yên tâm, tin tưởng vào công tác chỉ đạo, phòng chống dịch của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới và chắc chắn với những giải pháp đã và đang triển khai thực hiện, sẽ luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam ổn định và phát triển hơn nữa.

 

Phó Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn: Trải qua đợt dịch vừa qua, tỉnh Bắc Ninh đã từng có thời điểm là tâm dịch lớn của cả nước. Qua giai đoạn quyết liệt chống dịch cùng với sự hỗ trợ của Trung ương, của các đồng chí lãnh đạo tỉnh và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và người dân, trong đó có từng công nhân của các doanh nghiệp, chúng tôi nhận thức được rằng những khó khăn, trở ngại vừa qua, những thách thức mà chúng ta gặp phải chỉ là trong thời điểm tạm thời. Chúng ta cần phải tập trung, phải nỗ lực chiến đấu, chiến thấng dịch bệnh.

 

Từ những thách thức ấy, chúng ta thấy rằng cần chuyển hóa các thách thức thành nhận thức và thành hành động, chúng ta cần tích cực tạo ra sự chuyển biến của cả hệ thống trong thời gian tới, để vừa chống dịch an toàn, quyết liệt, tập trung nhất nhưng cũng phải linh hoạt, sáng tạo nhất.

 

Đối với các nhà đầu tư FDI cũng như các nhà đầu tư từ trước đến nay đã tin tưởng vào Việt Nam cũng như tin tưởng Bắc Ninh, chúng tôi luôn kỳ vọng bằng mọi cách, mọi phương án, mọi biện pháp để Việt Nam luôn là điểm đến an toàn và các địa phương cũng là điểm đến an toàn để các nhà đầu tư đặt niềm tin. Việt Nam luôn là nơi “đất lành, chim đậu” đối với các nhà đầu tư và thúc đẩy sự phát triển của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như sự phát triển của đất nước và các địa phương.

 

Những giải pháp tổng thể, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, linh hoạt, sáng tạo trong thời gian tới đây mà Chính phủ sẽ triển khai, chúng ta kỳ vọng và chắc chắn rằng dịch sẽ được khống chế một cách an toàn nhất và việc phục hồi, sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư sẽ có đột phá và mạnh mẽ hơn nữa.

 

Phó Chủ tịch tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng: Tình hình sản xuất trong thời điểm hiện nay là thích ứng, an toàn với đại dịch COVID-19, do đó phương châm của chúng tôi là trao quyền chủ động cho doanh nghiệp, lập kế hoạch để sản xuất an toàn. Bởi hơn ai hết, khi doanh nghiệp không an toàn thì doanh nghiệp bị thiệt hại trước. Do đó doanh nghiệp chủ động và chính quyền địa phương hỗ trợ. Tỉnh Đồng Nai sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp cùng vượt qua đại dịch COVID-19. Phương châm của chúng tôi vẫn  là “Doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch sản xuất của mình”./.

 Nhóm PV

314 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 791
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 791
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 88333297