Từ khi được ban hành, Luật Thuế TNDN đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội - Ảnh: VGP
Phát biểu tại phiên họp, đại diện Bộ Tài chính cho biết, kể từ khi ban hành đến nay, về cơ bản, các nội dung của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và các luật sửa đổi, bổ sung đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách thuế TNDN ngoài việc bảo đảm nguồn thu quan trọng, ổn định cho ngân sách Nhà nước, thực hiện chính sách phân phối lại trong nền kinh tế còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn ưu tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế hiện nay đang có nhiều thay đổi, sự phát triển nhanh, mạnh của khoa học và công nghệ cũng như công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện và mở rộng của các mô hình kinh doanh mới, nhất là các hoạt động kinh doanh dựa trên nền tảng kỹ thuật số, kinh tế chia sẻ; qua đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho việc hoàn thiện chính sách thuế TNDN của Việt Nam.
Bên cạnh đó, qua tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện giai đoạn vừa qua, chính sách thuế TNDN cũng đã phát sinh một số điểm hạn chế cần được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và xu hướng phát triển trong thời gian tới, bao gồm các quy định về thu nhập miễn thuế, thu nhập chịu thuế, phương pháp tính thuế, các nguyên tắc liên quan đến việc xác định các khoản chi phí được trừ và không được trừ, về chính sách ưu đãi thuế TNDN. Ngoài ra, trong những năm gần đây, Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có quy định chính sách ưu đãi thuế TNDN như Luật Đầu tư năm 2020, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017;…
Vì vậy, việc xây dựng Luật Thuế TNDN (sửa đổi) là cần thiết nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, thúc đẩy cải cách thủ tục hành, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đồng thời kịp thời tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; khơi thông, phát huy nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Nhất trí với sự cần thiết phải xây dựng dự thảo Luật, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu rà soát, bổ sung đối tượng ưu đãi thuế gồm tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; khu công nghiệp sinh thái và doanh nghiệp sinh thái; công nghiệp bán dẫn; các dự án đầu tư phát triển trung tâm tài chính quốc tế. Ngoài ra, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đề nghị Bộ Tài chính không đưa thêm tiêu chí xác định ưu đãi đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời xem xét có các quy định ưu đãi cho nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh để thúc đẩy, hỗ trợ các loại hình doanh nghiệp này phát triển.
Về chính sách 1 và chính sách 2 của dự thảo Luật, đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông nhất trí cần điều chỉnh quy định liên quan đến người nộp thuế TNDN, theo đó bổ sung quy định doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo các hình thức kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng công nghệ số có thu nhập. Tuy nhiên, đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị Bộ Tài chính cần có nghiên cứu sâu hơn trong lĩnh vực thương mại điện tử, kinh tế số để chuẩn hóa thuật ngữ, bao quát hết đối tượng nộp thuế và các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng công nghệ số đã xuất hiện tại Việt Nam.
Về hoàn thiện quy định về việc xác định các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, đồng chí đề nghị bổ sung thêm các khoản chi cho chuyển đổi số. Bên cạnh đó, đồng chí đề nghị điều chỉnh cụm từ "sản xuất sản phẩm phần mềm" tại điểm b khoản 1 Điều 13 thành "sản xuất sản phẩm phần mềm và dịch vụ phần mềm đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về công nghệ thông tin" để bảo đảm ưu đãi đúng đối tượng, đúng trọng tâm, tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp phát triển.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng phát biểu kết luận tại phiên họp Hội đồng thẩm định - Ảnh: VGP
Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ bổ sung thêm, về quy định Trích lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp, thực tế, thời gian đầu tư cho các hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp cần có sự tích lũy vốn theo thời gian, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc các doanh nghiệp lớn cần chuyển đổi công nghệ.
Vì vậy, đồng chí đề xuất Bộ Tài chính nghiên cứu kéo dài thời gian và giảm tỉ lệ phần trăm không sử dụng hết của Qũy phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để xác định việc doanh nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước phần thuế TNDN tính trên khoản thu nhập đã trích lập quỹ mà không sử dụng và phần lãi phát sinh từ số thuế thu nhập đó. Đồng thời hiện nay, hoạt động phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc Nhà nước được đấu thầu phát hành và trúng thầu cơ bản có kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên và một phần số lượng trái phiếu có thời hạn 5 năm.
Kết luận phiên họp, Thứ trưởng Trần Tiến Dũng đánh giá các nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, Thứ trưởng đề nghị ban soạn thảo rà soát các văn bản pháp luật đã ban hành để bảo đảm các nội dung chính sách đề xuất sửa đổi, bổ sung có tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật; chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao và Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp rà soát sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Cho ý kiến về các nội dung cụ thể, Thứ trưởng Trần Tiến Dũng đề nghị ban soạn thảo tiếp thu các ý kiến của các thành viên Hội đồng, nghiên cứu mở rộng cơ sở thuế phù hợp với Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia, an toàn bền vững có nêu "Hoàn thiện chính sách gắn với cơ cấu lại thu ngân sách Nhà nước theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới phù hợp với thông lệ quốc tế"; thu gọn các nội dung chính sách cho phù hợp;….
LS