|
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước chủ trì Hội nghị. |
Thứ nhất, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của cuộc sống. Ngày nay quan điểm của Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nói như vậy, cũng có thể hiểu văn hóa là chìa khóa của sự phát triển. Ngôn ngữ và cách diễn đạt ngày nay có nhiều thay đổi so với tám mươi năm trước, nhưng bản chất vấn đề là khẳng định vai trò, sứ mệnh, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội và loài người. Đây chính là quan điểm của Hồ Chí Minh 80 năm trước. Người không nêu định nghĩa hay khái niệm văn hóa mà viết “ý nghĩa của văn hóa”. Cách đặt vấn đề của Bác có chủ đích. Bởi trong quan niệm chung khi bàn về văn hóa, người ta thường chỉ tập trung vào kể ra văn hóa gồm những gì như văn học, nghệ thuật, lễ hội, du lịch, tín ngưỡng, v.v.. mà ít quan tâm tới ý nghĩa, vai trò của văn hóa là cái cần thiết và quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết định khi bàn về văn hóa. Quan điểm không có cái gì là văn hóa, nhưng cái gì cũng chứa đựng ý nghĩa và tinh thần văn hóa là theo cách tiếp cận đó.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa bắt đầu những từ “ý nghĩa của văn hóa” là một tư duy mở đường, soi đường, một khía cạnh có ý nghĩa tuyên ngôn về sứ mệnh của văn hóa cho nhận thức của chúng ta hôm nay. Nghiên cứu về văn hóa mà chỉ kể lể, liệt kê những hoạt động theo kiểu “cờ, đèn, kèn, trống” thì chưa phải là văn hóa, thậm chí có khi là phản văn hóa. Chẳng hạn hoạt động tín ngưỡng, văn hóa tâm linh mà không làm rõ được ý nghĩa tích cực của những hoạt động đó mà lại sa vào mê tín dị đoan thì hỏng.
Viết về ý nghĩa của văn hóa Bác khẳng định vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra các lĩnh vực của văn hóa. Tinh thần này lại được nhắc lại ở phần cuối khi Người nhấn mạnh loài người sản sinh ra văn hóa “nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Chỉ mấy từ ngắn gọn, nhưng mãi 55 năm sau, đến Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (7-1998), chúng ta mới đưa được nhận thức này vào nghị quyết. Từ đó đến nay, qua Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Đại hội XIII và Hội nghị văn hóa toàn quốc (24-11-2021), nhận thức đó trở thành nhất quán, xuyên suốt và từng bước đi vào cuộc sống.
Thứ hai, mối quan hệ giữa văn hóa với con người. Nhận thức này xuất phát từ chữ gốc tiếng latinh Cutus (trồng) với hai nghĩa: Cutus agri (trồng cây) và Cultus animi (vun bồi tinh thần). Từ đó tiếng Anh, Pháp dùng Culture (văn hóa). Như vậy, văn hóa chứa đựng nội hàm “trồng người” mà sau này Hồ Chí Minh nói tới “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Quan niệm của Hồ Chí Minh cho thấy văn hóa là toàn bộ những sáng tạo và phát minh của con người, tức những giá trị vật chất và tinh thần và những sáng tạo và phát minh đó lại nhằm phục vụ cho cuộc sống con người. Quan niệm ngày nay, con người vừa là chủ thể (sáng tạo ra văn hóa), vừa là khách thể (thụ hưởng các giá trị văn hóa), đồng thời mang chở các giá trị văn hóa để truyền cảm hứng trong đời sống xã hội. Đảng ta nhấn mạnh tạo môi trường văn hóa để xây dựng con người và con người lại làm cho môi trường văn hóa ngày một tốt hơn. Nhiệm vụ quan trọng nhất của văn hóa là xây dựng con người.
Thứ ba, phạm vi của văn hóa. Cùng với ngôn ngữ, chữ viết, văn học, nghệ thuật, Hồ Chí Minh chỉ ra văn hóa còn cả đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo và văn hóa vật thể như mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Cách tiếp cận của Bác có mấy điểm quan trọng cần làm rõ. Một là, cách nhìn của Người là cơ sở để chúng ta đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu các lĩnh vực văn hóa khác nhau như văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa tôn giáo, văn hóa văn nghệ…. Hai là, Người khẳng định khoa học, tôn giáo là những khía cạnh thuộc văn hóa, điều mà một thời gian khá dài nhận thức của chúng ta chưa thể vươn tới. Coi tôn giáo là một khía cạnh thuộc văn hóa đã khẳng định một cách rõ ràng quan điểm của Đảng về tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi người có thể theo hay không theo một tôn giáo nào; đồng thời cũng tạo ra một sức mạnh nội sinh quan trọng khi tâm linh của con người được chú trọng và vun bồi. Ba là, văn hóa thể hiện ở phương thức sử dụng, ẩn chứa trong đó có mối quan hệ giữa văn hóa và văn minh, điều mà ngày nay vẫn còn có sự lẫn lộn. Văn minh không đồng nhất với văn hóa. Văn minh nghiêng về trình độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, của vật chất. Không phải cứ trình độ văn minh cao là đi kèm văn hóa cao. Vấn đề ở chỗ con người sử dụng văn minh như thế nào thì đó là thước đo trình độ văn hóa. Chẳng hạn ăn như thế nào, mặc như thế nào, tham gia giao thông như thế nào, sử dụng máy móc điện tử thông minh như thế nào, v.v.. đó mới đích thực là văn hóa. Một ví dụ khác về hệ thống chính trị. Một đảng trở thành đảng cầm quyền được hiểu là đạt tới một trình độ văn minh chính trị, nhưng phương thức sử dụng quyền lực đó như thế nào lại thuộc phạm trù văn hóa chính trị. Nhìn từ hôm nay, cụm từ “phương thức sử dụng” có ý nghĩa lớn trong văn hóa giao tiếp, ứng xử, xử sự, xử thế và quan hệ giữa con người với con người, xã hội và thiên nhiên.
Thứ tư, mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội. Một trong những hạn chế, khuyết điểm Đảng ta nhắc đến trong các nghị quyết gần đây là còn nặng tư duy “duy kinh tế”, chạy theo tăng trưởng, làm giàu, coi văn hóa như “cái đuôi” của kinh tế; chưa thấy rõ mối quan hệ, tác động biện chứng giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội, điều mà 80 năm trước Hồ Chí Minh đã nêu lên, cũng là bốn trụ cột để một đất nước phát triển mà UNESCO nhấn mạnh. Trong năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đặt xây dựng tâm lý của dân tộc với lõi cốt là tinh thần độc lập tự cường lên hàng đầu. Đây là cách tiếp cận đặc biệt và mới mẻ cho thấy ý nghĩa, vai trò, sức mạnh của tâm lý dân tộc. Một dân tộc không nuôi dưỡng và đặt lên hàng đầu khát vọng độc lập tự cường thì không làm nổi việc gì. Tâm lý độc lập tự cường của dân tộc trong văn hóa Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thành công của đấu tranh giải phóng dân tộc, làm rạng rỡ lịch sử, vẻ vang giống nòi. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, tâm lý dân tộc phải được coi là tiêu chí, thước đo hàng đầu của văn hóa dân tộc. Trong Đề cương về văn hóa (năm 1943), Báo cáo Chính trị do Hồ Chí Minh đọc tại Đại hội II của Đảng (2-1951) đều nói tới ba nguyên tắc của nền văn hóa mới là dân tộc, khoa học, đại chúng. Ngày nay chúng ta bàn tới việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nội hàm của hai chữ “dân tộc” không có gì sâu sắc bằng lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự cường.
Sau xây dựng tâm lý là xây dựng luân lý (đạo đức) và xây dựng xã hội. Đây là những lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng liên quan tới văn hóa chính trị, nhân cách văn hóa của con người nói chung, của cán bộ, đảng viên nói riêng, mà quan trọng nhất là biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Một nền văn hóa đích thực, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, khoa học, hướng đến chân - thiện - mỹ là phục vụ quần chúng, vì lợi quyền và gắn bó mật thiết với nhân dân; mọi sự nghiệp liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của nhân dân trong xã hội.
Hồ Chí Minh bàn đến xây dựng chính trị mà hạt nhân là dân quyền. Một nền chính trị dân quyền được đặt trong văn hóa và nêu lên cách đây 80 năm khi chính quyền chưa về tay nhân dân là một suy nghĩ độc đáo, sâu sắc, vừa có ý nghĩa tạo động lực cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân vừa mang tầm chiến lược lâu dài, soi đường cho phát triển. Quan điểm về dân quyền sau này được Hồ Chí Minh nói tới nhiều như quan tâm dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ và ngày nay được Đảng ta coi là một trong những chìa khóa của sự phát triển đất nước.
Điểm thứ năm được đặt sau cùng là xây dựng kinh tế. Đây không chỉ là câu chuyện về mối quan hệ tác động qua lại, gắn bó mật thiết giữa văn hóa với chính trị, xã hội, kinh tế, mà còn cho thấy muốn phát triển văn hóa phải xây dựng kinh tế và kinh tế với ý nghĩa là cơ sở hạ tầng, bệ đỡ, nền tảng của thượng tầng kiến trúc gồm tâm lý, đạo đức, chính trị, xã hội. Từ di sản Mác - Lênin, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa. Theo Người cơ sở hạ tầng có kiến thiết rồi thì kiến trúc thượng tầng mới phát triển được. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, một nước bị chế độ phong kiến chuyên chế hàng ngàn năm đè nén và gần một thế kỷ bị chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nô dịch, kìm hãm trong vòng ngu dốt theo phương châm “làm cho dân ngu dễ trị”, Hồ Chí Minh sau này nói rõ hơn, sau khi giành được độc lập tự do, có lẽ phải đặt văn hóa lên hàng đầu để xây dựng con người, phát triển khoa học - kỹ thuật, tạo nguồn lực cho phát triển đất nước.
Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa năm 1943 nhìn từ hôm nay là nhìn ở thời điểm Đại hội XIII của Đảng đã đi qua được nửa chặng đường và chúng ta đang ở năm bản lề của nhiệm kỳ Đại hội XIII để đi tiếp chặng đường còn lại. Phải khẳng định rằng sau Đại hội XIII và Hội nghị văn hóa toàn quốc (24-11-2021) với bài phát biểu của Tổng Bí thư, văn hóa có những bước tiến đáng kể, đạt được nhiều thành tựu đáng mừng. Tuy nhiên, như các nghị quyết của Đảng và người đứng đầu Đảng ta đã chỉ ra, bên cạnh những chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa còn khá nhiều “bề bộn”. Thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề là do nhận thức về ý nghĩa, vai trò, sứ mệnh “soi đường, lãnh đạo” của văn hóa chưa đầy đủ, toàn diện, sâu sắc. Nhiều cấp ủy, chính quyền vẫn nhận thức theo kiểu “duy kinh tế, tăng trưởng nóng”, coi văn hóa chỉ “ăn theo” kinh tế; chưa nhận thức rõ mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội. Hoạt động văn hóa vẫn chủ yếu “cân, đo, đong, đếm”, nặng về giải trí, hình thức, bề nổi, chưa thực sự đi vào tư tưởng chính trị, tâm lý, đạo đức, lối sống, dân chủ là những điều thuộc về bản chất, cốt lõi của văn hóa mà 80 năm trước Hồ Chí Minh đã đặt ra một cách nghiêm túc. Việc xem nhẹ và chưa nhận thức thấu đáo ý nghĩa, vai trò, sứ mệnh, mục tiêu, động lực của văn hóa dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sự xuống cấp về văn hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng.
Văn hóa với hạt nhân là tâm lý, đạo đức, tư tưởng chính trị trong cách nhìn của Hồ Chí Minh là thước đo, sự thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn mà theo UNESCO thì “sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển”. Nhìn từ hôm nay sau 80 năm, những mặt, khía cạnh và nhận thức đó không phải đã thấm sâu vào từng người, từng cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu; thấm vào tổ chức, cơ quan, đơn vị, đoàn thể, thôn bản; thấm vào gia đình, xã hội để biến thành niềm tin, thói quen, lối sống; thành hành động thực sự, hiệu quả hằng ngày.
Với tinh thần, thái độ và cách tiếp cận có hàm lượng văn hóa cao, những hạn chế, khuyết điểm, tồn tại nêu trên cần phải được đánh giá, xem xét, mổ xẻ nghiêm túc. Bởi vì, vai trò của văn hóa là khả năng suy xét, làm cho con người trở thành một sinh vật đặc biệt, nhân bản, lý tính, có óc phê phán, dấn thân một cách đạo lý. Nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức, tự soi, tự biết mình là một công trình chưa hoàn thiện để tự sửa, tìm tòi một ý nghĩa mới mẻ, sáng tạo, tạo nên một công trình mới, vượt trội lên bản thân. Nếu không vậy mà giấu giếm, che đậy cái ác, cái xấu trong mình là phản văn hóa.
Phải học và làm theo những lời dạy của Bác về văn hóa 80 năm trước, đặc biệt nhận thức về mục tiêu, động lực của văn hóa với những nét riêng biệt về tâm lý dân tộc, đạo đức, chính trị, thì chúng ta mới xây dựng được một nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường, hạnh phúc, sải bước cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện và khát vọng của Bác Hồ vĩ đại và của cả dân tộc./.
PGS. TS Bùi Đình Phong