Tính tất yếu khách quan của thành phần kinh tế tư nhân thể hiện như sau:
Thứ nhất, tính tất yếu khách quan của kinh tế tư nhân xuất phát từ quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, với sự phát triển của lực lượng sản xuất như hiện nay thì phát triển kinh tế tư nhân là một đòi hỏi khách quan. Trình độ lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng quy định trình độ phát triển của con người. Khi thừa nhận kinh tế thị trường là cần thiết đối với quá trình xây dựng CNXH, thì cũng có nghĩa là phải thừa nhận sự tồn tại tất yếu của kinh tế tư nhân trong CNXH. Đó còn là sự thừa nhận một động lực quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển nền kinh tế XHCN.
Thứ ba, kinh tế tư nhân vẫn đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế tư nhân trong suốt quá trình đổi mới đất nước đã đóng góp không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước.
Trong một báo cáo công bố gần đây, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, thế giới đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt là những vấn đề kinh tế - xã hội. Để giải quyết được những khó khăn đó, cần phải thực hiện nhiều biện pháp, trong đó có việc quan tâm, tạo môi trường, động lực cho sự phát triển kinh tế tư nhân.
Không phải là một yêu cầu mới, mà lịch sử phát triển thế giới cũng đã cho thấy, không một nhà nước nào dù ưu việt đến đâu có thể đảm nhiệm tốt cả chức năng phát triển thị trường, thúc đẩy tăng trưởng và chức năng bảo đảm phúc lợi xã hội cho người dân. Việc phát huy vai trò của khu vực tư nhân được xem là yếu tố then chốt nhằm huy động tối đa nguồn lực của khu vực rộng lớn, đa dạng và năng động này, nhằm xây dựng nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội… Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa hiện nay, sức ép mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi các quốc gia, nhất là các nước có trình độ phát triển thấp phải có chiến lược và chính sách đúng đắn nhằm huy động và phát huy tiềm lực của khu vực kinh tế tư nhân, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Đến quyết sách
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối đổi mới, xác định “nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”, chỉ rõ 6 thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước; đồng thời khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế… Xóa bỏ những thành kiến lệch lạc…”.
Tiếp tục tư tưởng của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Đại hội nêu rõ: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thúc” và “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”. Đại hội VII cũng khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) quyết định “kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài”.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”. Đại hội quyết định “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động”.
Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ năm ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đổi mới, Trung ương có một nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân. Trên cơ sở nhận định về thực trạng kinh tế tư nhân, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX thống nhất chủ trương và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các daonh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước.
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể thấy, quan niệm coi kinh tế tư nhân là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong 2 kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta.
Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh việc: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. khuyến khích hính thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
Những chuyển biến tích cực
Từ những quan điểm đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách lớn nhằm hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, kinh tế tư nhân ở nước ta đã không ngừng phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh và đối xử bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và các vùng, miền; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, được thể hiện trên các mặt sau: Huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất kinh doanh; tạo ra nhiều của cải hàng hóa cho xã hội đóng góp vào ngân sách nhà nước; góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội; tạo thêm nhiều việc làm mới vừa làm tăng của cải vật chất cho xã hội; vừa làm giảm áp lực giải quyết việc làm cho người lao động; thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường; làm tăng sức cạnh tranh hàng hóa sản xuất trong nước; tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội; tạo động lực và môi trượng cạnh tranh sống động, linh hoạt, sáng tạo cho sự phát triển; góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành sản xuất và thực hiện đường lối”chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế”.
Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp tư nhân nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, từ gần 63.000 doanh nghiệp hoạt động năm 2002 lên khoảng 550.000 doanh nghiệp hoạt động, tính đến cuối năm 2016. Riêng năm 2016, số doanh nghiệp thành lập mới đã tăng ở mức kỷ lục với hơn 110.000 doanh nghiệp.
Số liệu Tổng Cục Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2006 – 2015, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa. Đặc biệt, khu vực kinh tế tư nhân thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước, tạo việc làm cho khoảng ½ triệu lao động.
Một con số rất đảng chú ý là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực tư nhân tốt hơn so với các thành phần kinh tế khác, cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước.
Phát triển kinh tế tư nhân là một chủ trương nhất quán và đúng đắn của Đảng ta. Phan Văn Lãn (tổng hợp)