Trước tình hình đó, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo “Nhận diện các điểm nghẽn phát triển của Việt Nam trong bối cảnh hậu COVID-19: Một số yêu cầu cải cách thể chế” với mong muốn tạo diễn đàn chia sẻ, trao đổi ý kiến xung quanh nội dung về phát triển kinh tế hậu COVID-19. Hội thảo diễn ra ngày 1/6 tại trụ sở CIEM, Hà Nội.
|
Hội thảo diễn ra tại Hà Nội do CIEM tổ chức thông tin về điểm nghẽn kinh tế hậu COVID-19 (Ảnh: PA) |
Phát biểu khai mạc, TS Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM nhấn mạnh, dịch COVID-19 đã có những tác động sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài tác động đó. Bởi thế, ngay với những lĩnh vực cải cách đã xác định, yêu cầu thực hiện phải nhanh và triệt để hơn. Đồng thời, cần nhận diện những điểm nghẽn đối với phát triển hậu COVID-19.
Thực tế cho thấy, diễn biến kinh tế thế giới ngày một phức tạp và khó lường hơn; căng thẳng/xung đột địa chính trị, chủ nghĩa cực đoan tiếp tục diễn biến phức tạp; rủi ro đối với thương mại và đầu tư toàn cầu chưa lắng xuống: chủ nghĩa bảo hộ; căng thẳng thương mại; chiến tranh thương mại Mỹ-Trung còn nhiều bất định; Brexit; Cải cách WTO và nhất là sự suy giảm kinh tế ở các nền kinh tế lớn cộng với xu hướng nới lỏng tiền tệ trở nên rõ hơn.
Trình bày báo cáo khái quát về nội dung trên, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu – Tổng hợp CIEM cho biết, cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số đang khiến cho sự đua tranh giữa các nền kinh tế trở nên rõ hơn đồng thời làm gia tăng sự đối đầu giữa phát triển công nghệ và tư duy quản lý, kể cả ở các nước phát triển.
Với Việt Nam, hơn lúc nào hết cần tiếp tục khung chính sách kết hợp ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài với cải cách vi mô; tiếp tục ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và giải trình hợp lý với thị trường (kể cả đối tác bên ngoài); xây dựng kịch bản phục hồi kinh tế hậu COVID-19; sửa đổi một số Luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật PPP,...); tiếp tục xây dựng các chính sách nhằm tận dụng cơ hội từ các FTA thế hệ mới, cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số đồng thời tận dụng tốt vị thế quốc tế khi trong ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
|
Đông đảo đại biểu là các nhà quản lý, chuyên gia và phóng viên báo chí Trung ương, Hà Nội đã tham dự (Ảnh: PA) |
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn thách thức. Theo ông Nguyễn Anh Dương, việc duy trì và củng cố động lực thực thi gặp phải “đụng trần thể chế” ở một số địa phương khi thực thi Nghị quyết 02-NQ/CP và cải thiện chỉ số năng lực hội nhập quốc tế và truyền tải vào nhận thức, hành động, chính sách trong nước.
Hơn nữa, thế giới chắc chắn sẽ diễn ra sự dịch chuyển chuỗi giá trị với xu hướng dịch chuyển của FDI khỏi Trung Quốc, thực tế đã hiện hữu từ lâu (Trung Quốc+1), nhưng rõ hơn trong thời gian gần đây do: suy giảm kinh tế ở Trung Quốc, chi phí lao động ở Trung Quốc tăng; chiến tranh thương mại Mỹ-Trung; cạnh tranh từ một số nước ASEAN và Ấn Độ. Đặc biệt, đại dịch COVID-19 chỉ khiến nhà đầu tư dịch chuyển nhanh hơn. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, dù có chuyển sang ASEAN hay không, nhà đầu tư nước ngoài sẽ “không bỏ hết trứng vào một giỏ” .
Kinh tế số được lưu tâm hơn với sự gia tăng nhu cầu xử lý dữ liệu lớn, IoT... Nền Kinh tế tuần hoàn với đứt gãy chuỗi giá trị và việc sử dụng đầu vào sản xuất hiệu quả hơn. Các ngành sản xuất lưỡng dụng và có thể xuất hiện xu hướng doanh nghiệp công nghệ tham gia sản xuất trang thiết bị, vật tư y tế.
Dịch bệnh COVID-19 cũng làm thay đổi đáng kể cách người dân nhìn nhận về Chính phủ. Theo đó, vai trò của Nhà nước sẽ tăng với quy mô hỗ trợ lớn hơn; thực thi các biện pháp chưa từng có tiền lệ. Do vậy, phát triển bao trùm và bền vững càng trở nên nổi bật. Điều này biểu hiện ở một số lĩnh vực: công nghệ, biến đổi khí hậu, y tế…
Cũng phải thấy rõ thực trạng tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Theo thống kê, Quý I/2020 thấp hơn so với cùng kỳ các năm 2010-2019. Xuất khẩu và cán cân thương mại vẫn tích cực trong các tháng đầu năm, song khả năng duy trì là rất khó khăn kể từ tháng 4. 5 tháng đầu năm, đã giảm 1,7% so với cùng kỳ 2019 trong khi đó Quý I tăng 5,7.
Mặc dầu vậy, dịch COVID-19 cũng là cơ hội để các Chính phủ tích cực cải tổ, triển khai mạnh Chính phủ điện tử (tiến tới Chính phủ số); từng bước tiến hành triển khai hiệu quả điều phối và sử dụng nguồn lực công; thực thi phát triển bao trùm và bền vững. Nhất là trong ứng xử với nhà đầu tư: không chỉ là cắt giảm thủ tục không cần thiết mà còn nâng cao chất lượng tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng, cụ thể.
Về hạ tầng số, xếp hạng về sẵn sàng công nghệ của EIU cho thấy Việt Nam đứng thứ 65 cho 2018-2022 (so với thứ 67 trong 2013-2017) nhưng mức độ cải thiện bao trùm về Internet vẫn là yêu cầu cần thiết. Thêm vào đó, năng suất lao động thấp và chậm được cải thiện so với yêu cầu; khả năng thích ứng với điều kiện làm việc trong chuỗi giá trị; khả năng thích ứng với điều kiện “biến động lớn”vẫn còn hạn chế.
Tại Hội thảo, các chuyên gia và đại biểu cũng thống nhất cao rằng, điều quan trọng hơn nữa là vẫn phải tiếp tục theo dõi diễn biến dịch; Tăng cường chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, hợp tác quốc tế liên quan góp phần vào phục hồi và phát triển kinh tế hậu COVID-19 theo hướng xây dựng và thực thi kế hoạch phục hồi tăng trưởng kinh tế; tái cơ cấu kinh tế kết hợp với hoàn thiện chính sách công nghiệp và nâng chất lượng thu hút FDI; cải thiện môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Phát triển hạ tầng (bao gồm cả hạ tầng cứng và hạ tầng số); Phát triển kỹ năng thích ứng cho doanh nghiệp và người lao động; Thực hiện hiệu quả các FTA, đặc biệt là các FTA mới (CPTPP, EVFTA); ứng dụng linh hoạt và hiệu quả với điều kiện của Việt Nam các mô hình kinh tế mới: kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn…/.