Nghiên cứu khoa học tại các trường đại học: Còn khiêm tốn 

(Chinhphu.vn) - Nghiên cứu khoa học được xem là “linh hồn” của các trường đại học (ĐH) để thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có nhiều nhà khoa học trong hệ thống giáo dục ĐH đoạt giải thưởng cao của thế giới, cũng như chưa có những nhóm nghiên cứu mạnh ở các công trình quốc tế.

 

Ảnh minh họa

Thống kê cho thấy, các trường ĐH hiện cung cấp hơn 90% nhân lực khoa học-công nghệ (KH-CN) trong cả nước, 10% còn lại được đào tạo ở nước ngoài. Đội ngũ giảng viên trong các trường ĐH được xếp là một trong 5 lực lượng làm công tác khoa học trong các lĩnh vực từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, khoa học kinh tế, giáo dục, kỹ thuật-công nghệ, nông lâm ngư nghiệp, y dược, tài nguyên và môi trường.

Tuy nhiên, đầu tư tài chính cho nghiên cứu khoa học trong cả nước hiện nay bình quân chỉ khoảng 1,7% ngân sách (giai đoạn 2011-2015), tương đương 0,4% GDP (trong khi tại Malaysia là 1,26%, Singapore là 2,2%). Đầu tư thấp, dàn trải nên năng suất nghiên cứu khoa học, đặc biệt là công bố quốc tế, của các trường hiện nay khá khiêm tốn. Khối các trường kỹ thuật công nghệ, bên cạnh các sản phẩm thương mại và các bằng chứng nhận sở hữu trí tuệ, luôn có tỉ lệ công bố quốc tế cao nhất. Trong giai đoạn 2011-2016, khối trường này (16 trường) công bố quốc tế 1.733/5.738 bài báo quốc tế của cả nước, chiếm 30% toàn ngành. Tuy nhiên, so với các ĐH khác trong khu vực thì năng suất nghiên cứu khoa học là khá thấp.

Khối các trường nông-lâm-ngư-y đã có 3.349 bài đăng trên các kỷ yếu hội thảo quốc gia và quốc tế. Nếu so sánh với nguồn nhân lực hiện có thì số lượng đề tài nghiên cứu khoa học của khối trường này rất khiếm tốn, bình quân chỉ đạt 0,74 bài/cán bộ khoa học trong 5 năm (2011-2016), trong khi đó, nhiều trường có lịch sử phát triển 20-60 năm.

Khối các trường ĐH sư phạm (21 trường thuộc Bộ GD&ĐT) có 2.000/9.000 giảng viên là tiến sĩ (TS). Nhưng số lượng bài báo quốc tế có uy tín như ISI/SCOPUS khá khiêm tốn so với nguồn nhân lực hiện có (chỉ có 804 bài trong giai đoạn 2011-2015). Trong đó, ĐH Sư phạm Hà Nội có tỉ lệ công bố bài báo quốc tế ISI là 0,15 bài/TS/năm; ĐH Sư phạm Đà Nẵng có 0,13 bài/TS/năm; ĐH Sư phạm TPHCM có 0,06 bài/TS/năm. Thậm chí, Viện Khoa học giáo dục không có được một bài báo quốc tế nào.

Đối với các trường ĐH khối khoa học xã hội nhân văn, công bố quốc tế cũng không khá hơn là bao. Trung bình mỗi năm, một nhà khoa học đạt gần 0,5 bài. Duy nhất chỉ có ĐH Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà Nội) đạt 1,45 bài/TS/năm. Bên cạnh đó, nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các trường còn quá thấp, nhiều trường gần như là số không…

Theo thống kê, trong giai đoạn 2011-2015, ngành giáo dục chỉ đầu tư cho nghiên cứu khoa học gần 1.284 tỷ đồng; ít hơn nhiều so với Bộ KH&CN (gần 7.000 tỷ đồng), Bộ NN&PTNT (hơn 3.724 tỷ đồng), Bộ GTVT (hơn 1.495 tỷ đồng), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (hơn 2.858 tỷ đồng), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội (hơn 1.386 tỷ đồng). Trong khi đó, mức độ hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học của hệ thống giáo dục ĐH rất ít, chỉ một số ít trường khối công nghệ, kỹ thuật có sự liên kết cao hơn.

Lâm Hoàng

451 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 778
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 778
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 77255504