|
Ảnh chỉ có tính minh hoạ (Ảnh: Đặng Hiếu) |
Theo báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 11 năm 2022 của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng sản xuất công nghiệp có dấu hiệu chững lại do sức cầu bên ngoài yếu. Chỉ số sản xuất công nghiệp trong tháng 10 chỉ tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước - trong khi chỉ số này ở mức tăng 10,3% trong tháng 9. Tăng trưởng giảm tốc có thể do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang yếu dần. Tuy nhiên, sức cầu yếu đi bên ngoài cũng có thể là nguyên nhân quan trọng khi tăng trưởng tại EU, Hoa Kỳ và Trung Quốc đang chậm lại. Chỉ số quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực chế tạo - chế biến giảm từ 52,5% trong tháng 9 xuống 50,6% trong tháng 10, là mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021, càng chứng tỏ tăng trưởng trong lĩnh vực chế tạo - chế biến đang giảm tốc.
Doanh số bán lẻ tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ chậm hơn. So với cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ tăng 17,1% trong tháng 10 so với mức tăng 32,3% của tháng 9. Tăng trưởng giảm mạnh một mặt do hiệu ứng xuất phát điểm thấp đang mờ dần, giống như đối với chỉ số sản xuất công nghiệp, mặt khác, điều này phản ánh nhu cầu trong nước đang yếu đi do quá trình hồi phục tiêu dùng trong ba quý đầu năm dường như đang yếu dần trong điều kiện lạm phát. Doanh số bán lẻ hàng hóa tăng 9,6%, thấp hơn so với tốc độ tăng trước đại dịch ở mức khoảng 12% so với cùng kỳ năm 2021. Tốc độ tăng doanh số dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành đã từng vượt trên cả mức trước đại dịch trong tháng 8/2022, nhưng hiện chỉ đạt 12% (so với cùng kỳ năm 2021), nghĩa là thấp hơn so với tháng 10/2019.
Số lượt khách du lịch quốc tế sau khi phục hồi mạnh mẽ từ tháng 3 đến tháng 8/2022, nhưng bắt đầu đi ngang trong tháng 9 và tháng 10. Cả nước đón được 484.400 lượt khách quốc tế trong tháng 10, tăng 12,2% so với tháng 9, nhưng chỉ bằng 30% so với mức vào tháng 10/2019.
Cán cân thương mại hàng hóa ghi nhận thặng dư trong tháng 10, nhưng tăng trưởng xuất khẩu chững lại. Mặc dù cán cân thương mại ghi nhận thặng dư ở mức 2,3 tỷ USD trong tháng 10 (tháng thứ 5 liên tiếp xuất siêu), nhưng tăng trưởng xuất khẩu lại giảm từ 10,3% trong tháng 9 xuống còn 4,8% trong tháng 10 (so với cùng kỳ), là tốc độ tăng thấp nhất kể từ tháng 10/2021. Lý giải tăng trưởng xuất khẩu giảm tốc, báo cáo cho rằng một phần là do sức cầu bên ngoài yếu đi. Nhập khẩu hàng hóa nhích nhẹ từ 6,5% trong tháng 9 lên 7,1% trong tháng 10 (so với cùng kỳ) nhưng cơ cấu nhập khẩu có sự thay đổi. Nhập khẩu tăng do kim ngạch nhập khẩu bật tăng trở lại đối với hàng điện tử từ -4,6% trong tháng 9 lên 0,8% trong tháng 10 (so với cùng kỳ) và máy móc từ 1,5% lên 4,0% (so với cùng kỳ) trong cùng giai đoạn. Tuy nhiên, tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu sợi, đầu vào dệt may và giày da lại giảm từ 22,1% xuống còn 7,8% (so với cùng kỳ).
Tổng vốn đăng ký đầu tư FDI nhảy vọt lên 3,7 tỷ USD trong tháng 10, tăng 122% (so với cùng kỳ). Mức tăng này có được là nhờ các khoản đầu tư lớn vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới (2,0 tỷ USD) trong lĩnh vực điện, khí và cấp nước. Mặt khác, đầu tư trong lĩnh vực chế tạo - chế biến vẫn thấp hơn 13,1% so với năm trước. Trong 10 tháng đầu năm 2022, tuy vốn đăng ký FDI đạt 22,5 tỷ USD, giảm 5,4% so với năm trước; nhưng số giải ngân vốn FDI vẫn đứng vững, tăng 8,1% trong tháng 10 và tăng 15,2% trong 10 tháng đầu năm (so cùng kỳ).
Tăng trưởng tín dụng hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao. Sau khi đạt kỷ lục tăng 16,9% trong tháng 9, tăng trưởng tín dụng giảm xuống còn 16,5% trong tháng 10 (so với cùng kỳ). Tốc độ tăng giảm xuống là do tác động của việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thặt chặt điều kiện huy động tài chính trong nước bằng cách nâng lãi suất lên tổng cộng 200 điểm cơ bản trong tháng 9 và tháng 10. Lãi suất liên ngân hàng qua đêm đạt kỷ lục mới ở mức bình quân 5,8% trong tháng 10 so với 4,9% trong tháng 9/2022, cao hơn nhiều so với lãi suất 0,65% trong năm trước đó. Lãi suất cũng biến động mạnh hơn, giao động từ mốc đáy 3,1% lên mốc đỉnh 8,4% trong tháng 10.
Cân đối ngân sách đạt bội thu, tuy chỉ ở mức nhỏ. Đến cuối tháng 10/2022, thu ngân sách của Chính phủ vượt tổng dự toán thu cho cả năm ở mức 3,7%, nhưng chi ngân sách chỉ đạt 68,3% so với tổng dự toán chi cả năm, dẫn đến bội thu ngân sách ở mức 10,7 tỷ USD. Giải ngân đầu tư công đạt 56,6% so với kế hoạch được Quốc hội phê duyệt, cao hơn hai điểm phần trăm so với năm trước (53,9%) trong khi chi thường xuyên đạt 75,7%, thấp hơn so với 77% cùng kỳ năm trước. Do ngân sách đạt bội thu trong tháng 10, Kho bạc Nhà nước chỉ phát hành 1,0 tỷ USD trái phiếu chính phủ bằng nội tệ, toàn bộ đều có kỳ hạn dài (từ 10 năm trở lên). Trong 10 tháng đầu năm 2022, tổng khối lượng trái phiếu phát hành đạt 34,9% kế hoạch năm, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2021 (72,5% kế hoạch).
Chi phí vay nợ tiếp tục tăng, khi lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tăng từ 3,0% lên 4,0% trên thị trường sơ cấp (mức tăng mạnh nhất kể từ đại dịch), thu hẹp khoảng cách so với thị trường thứ cấp, với lợi suất ở mức 5,2% trong tháng 10. Chi phí vay nợ gia tăng là do điều kiện huy động tài chính trong nước bị thắt lại khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất để ổn định đồng nội tệ trong điều kiện sức cầu bên ngoài chững lại, lạm phát trong nước gia tăng và đồng đô la Mỹ mạnh lên...
Trước những diễn biến của nền kinh tế như trên, Ngân hàng Thế giới cho rằng, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến tiếp tục nâng lãi suất, nên cơ quan quản lý tiền tệ của Việt Nam có thể cân nhắc cho phép tỷ giá linh hoạt hơn nữa, bao gồm cho phép tỷ giá tham chiếu tăng nhanh hơn. Biện pháp này có thể được bổ sung bằng cách tiếp tục sử dụng lãi suất tham chiếu, đặc biệt, nếu tỷ giá tăng nhanh dẫn đến tăng lạm phát. Do áp lực tỷ giá kéo dài, biện pháp bán ngoại tệ trực tiếp nên được áp dụng sáng suốt để bảo tồn dự trữ ngoại hối. Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ lúc này trở nên hết sức quan trọng để đảm bảo giá cả ổn định trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước tăng tốc...