EVN cho biết thời tiết khô hạn vẫn tiếp tục xảy ra ở nhiều hồ thủy điện trên cả nước, lượng nước về vẫn ở mức rất thấp so với trung bình nhiều năm. Đặc biệt, trên lưu vực sông Đà, lượng nước về các hồ chứa lớn ở phía Bắc như Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và nhiều hồ thủy điện tại khu vực Nam Trung Bộ ở mức thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Chỉ riêng một số hồ chứa ở các lưu vực Tây Nguyên và Nam Bộ như hồ Sêrêpôk, Trị An.. phải xả điều tiết để đảm bảo mực nước giới hạn theo quy định.
Theo EVN, tính đến đầu tháng 10/2019, mức nước tại 26/37 hồ chứa thủy điện thuộc EVN ở mức thấp hơn cùng kỳ năm 2018. Tổng dung tích hữu ích hiện có ở các hồ chứa thủy điện khoảng 19,67 tỷ m3, thấp hơn cùng kỳ năm 2018 khoảng 7,67 tỷ m3, tương đương gần 2 tỷ kWh điện.
|
Mực nước tại nhiều hồ thủy điện rất thấp so với cùng kỳ nhiều năm ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch phát điện và cấp nước cho hạ du. Ảnh: VGP/ Toàn Thắng |
Tình hình thủy văn không thuận lợi đã ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch phát điện và cung cấp nước cho hạ du, đặc biệt là các hồ thủy điện lớn khu vực phía Bắc và nhiều hồ thủy điện khu vực Nam Trung Bộ. Tính đến hết tháng 9/2019 sản lượng điện sản xuất các nhà máy thủy điện chỉ đạt 51,98 tỷ kWh, giảm 18,3%, giảm 11,7 tỷ kWh so cùng kỳ năm 2018.
Để bảo đảm nhiệm vụ cung ứng điện phục vụ phát triển KT – XH của đất nước và sản xuất sinh hoạt của nhân dân, EVN đã phải tập trung huy động cao sản lượng điện từ các nhà máy nhiệt điện than và cả nguồn điện chạy dầu giá cao. Đến hết tháng 9/2019 điện sản xuất từ các nhà máy nhiệt điện than đạt 88,05 tỷ kWh, tăng 35%, tăng 22,8 tỷ kWh so cùng kỳ năm 2018.
Điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) đạt 3,51 tỷ kWh chiếm tỷ trọng khoảng 1,54%, trong đó sản lượng điện mặt trời là 2,78 tỷ kWh.
EVN cũng cho biết chỉ trong 20 ngày đầu tháng 10/2019, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống là 13,2 tỷ kWh, trong đó EVN phải huy động các nguồn điện chạy dầu là 178 triệu kWh.
Theo tính toán của EVN, ước tính cả năm 2019 dự kiến phải huy động nguồn chạy dầu với chi phí cao với sản lượng khoảng 1,56 tỷ kWh để bảo đảm nhiệm vụ cung ứng điện
Theo EVN việc vận hành hệ thống điện trong 3 tháng cuối năm 2019 sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó: Nhu cầu điện dự báo tiếp tục tăng trưởng cao, trong khi hệ thống điện hầu như không có dự phòng nguồn điện, mực nước các hồ thủy điện đang ở mức rất thấp, đặc biệt các hồ thủy điện lớn trên dòng sông Đà đang ở gần mức nước chết; việc cung ứng than cho phát điện hết sức khó khăn.
|
Trong các tháng cuối năm việc vận hành hệ thống điện sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn. Ảnh: VGP/ Toàn Thắng |
Cùng với đó các nhà máy nhiệt điện đã phải huy động cao trong 9 tháng đầu năm. nguồn khí trong nước đã suy giảm, từ tháng 10/2019 sản lượng khí PM3 tiếp tục giảm mạnh. Các nguồn điện dầu dự kiến sẽ phải huy động cao trong 3 tháng cuối năm sẽ là thách thức lớn đối với tình hình tài chính của Tập đoàn. Tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo đã đưa vào vận hành và dự kiến tiếp tục tăng cao cũng ảnh hưởng đến việc vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện...
Tuy nhiên, với mục tiêu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch năm 2019, trong đó đảm bảo cung cấp điện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động; phấn đấu kinh doanh có lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn, EVN đề ra một số chỉ tiêu kế hoạch vận hành cụ thể:
Sản lượng điện sản xuất và mua cả năm 2019 ước đạt 226,4 tỷ kWh, trong đó sản lượng điện thương phẩm năm 2019 ước đạt 211,4 tỷ kWh, tăng 9,9% so với thực hiện năm 2018.
Năm 2019, điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo sẽ đạt khoảng 5,54 tỷ kWh (riêng điện mặt trời là khoảng gần 4,6 tỷ kWh).
EVN cũng đề ra mục tiêu vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện và thị trường điện, bám sát tình hình phụ tải, diễn biến thời tiết - thuỷ văn và sẵn sàng ứng phó với các tình huống bất lợi; huy động tối ưu các nhà máy điện trong hệ thống.