Môi trường kinh doanh nhiều chuyển biến nhưng tốc độ chưa đạt yêu cầu 

(ĐCSVN) - Năm 2018 là năm đã ghi nhận những chuyển biến rất tích cực về môi trường kinh doanh của Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), dù đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng tốc độ thay đổi vẫn chưa đạt yêu cầu.

 

Ảnh minh họa (Ảnh: M.P)

Những chuyển động dù ấn tượng nhưng chưa như kỳ vọng

Những kết quả của việc cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam trong thời gian qua gắn liền với sự chủ động, quyết liệt của Chính phủ, và là kết quả ban đầu của việc thực hiện hiệu quả loạt Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, những chuyển động dù rất ấn tượng nhưng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng của doanh nghiệp. Đáng chú ý, mức độ chuyển biến không đồng đều, có sự chênh lệch khá lớn giữa các lĩnh vực và địa phương.

Ông Vũ Tiến Lộc dẫn chứng, việc cắt giảm điều kiện kinh doanh có nhiều tín hiệu tích cực, đa số các bộ ngành hoàn thành vượt yêu cầu cắt giảm và đơn giản hoá tối thiểu 50% điều kiện kinh doanh tính đến 31/10 vừa rồi. Tuy nhiên kết quả khảo sát vẫn cho thấy, vẫn có 58% doanh nghiệp đang phải xin các loại giấy phép kinh doanh có điều kiện và 42% doanh nghiệp trong số đó cho biết họ gặp khó khăn khi xin phép.

Việc cải cách kiểm tra chuyên ngành có tiến bộ. Điểm sáng nhất là Nghị định 15/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP về hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, tính đến tháng 9/2018 mới chỉ có 68 thủ tục kiểm tra chuyên ngành có thể thực hiện được trên Cổng thông tin một cửa quốc gia và cũng mới có một thủ tục (khai báo hoá chất) là thực hiện điện tử hoàn toàn, các thủ tục khác vẫn nộp thêm bản giấy.

Thủ tục đăng ký kinh doanh có nhiều chuyển biến tích cực, được xem là lĩnh vực đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin nhưng theo kết quả khảo sát, bình quân cả nước mới có 13% được thực hiện trực tuyến.

Đồng thời, thủ tục cấp giấy phép xây dựng đã bước đầu liên thông với thủ tục phòng cháy chữa cháy, nhưng mức độ liên thông vẫn còn thấp.

Việc nộp thuế của doanh nghiệp đã thuận lợi hơn rất nhiều, chủ yếu do ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, tình trạng quy định pháp luật thuế thiếu rõ ràng, gây ra cách hiểu không thống nhất giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế vẫn còn nhiều; Thủ tục đăng ký bất động sản mặc dù có cải thiện, nhưng còn đơn lẻ, chưa có sự liên kết, phối hợp với thủ tục về xây dựng, công chứng, nộp thuế. Cải cách thủ tục hành chính tại nhiều địa phương có tiến bộ, song việc triển khai thủ tục trực tuyến vẫn chậm và có nhiều trục trặc.

Cùng với đó, cơ chế một cửa đang phát huy hiệu quả tốt ở nhiều địa phương. Công tác tổ chức đối thoại giữa chính quyền tỉnh và doanh nghiệp được phát huy tốt. Mô hình cà phê doanh nhân được nhiều doanh nghiệp hoan nghênh. Tuy vậy, các mô hình trên vẫ chưa được lan tỏa rộng khắp và thực chất.

Công tác thanh, kiểm tra cũng được đánh giá có chuyển biến tích cực, tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh kiểm tra từ 2 lần giảm từ 48% xuống 40%, tỷ lệ doanh nghiệp cho biết có sự trùng lặp về nội dung giữa các cuộc thanh kiểm tra từ 24% giảm còn 14% chỉ sau một năm. Điều này cho thấy Chỉ thị 20 chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra mà Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5 năm 2017 đã phát huy tác dụng. 

Như vậy, có thể thấy có rất nhiều sự cải thiện, tuy nhiên không gian cải cách vẫn còn rất lớn để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp.

Cần có những cải cách thực chất và đồng đều hơn

Rõ ràng, các bộ, ngành và địa phương cần có những cải cách thực chất và đồng đều hơn, nhằm tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi cho cộng đồng kinh doanh. 

Đúc kết từ kết quả nghiên cứu của Báo cáo Thực hiện Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 về cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển doanh nghiệp góc nhìn từ doanh nghiệp do VCCI vừa thực hiện, cộng đồng doanh nghiệp đặt kỳ vọng vào việc cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và kiểm tra chuyên ngành. Theo nhiều doanh nghiệp, trong quá trình cắt giảm hiện đang nảy sinh vấn đề chưa thống nhất về tiêu chí xác định quy định nào cắt bỏ hay giữ lại. Ví dụ, có Nghị định bỏ các điều kiện kinh doanh yêu cầu kinh nghiệm hoặc bằng cấp của nhân lực, nhưng lại có Nghị định khác vẫn duy trì. Một ví dụ khác là có nơi sử dụng tiêu chí về lịch sử tuân thủ của một loại hàng hoá để giữ lại/loại bỏ trong danh mục hàng hoá kiểm tra chuyên ngành, trong khi nơi khác lại không sử dụng biện pháp này. Do đó, cần sớm có thống nhất về tiêu chuẩn đưa ra các quy định gia nhập ngành để bảo đảm tính thống nhất và thuận tiện trong quá trình rà soát. 

Bên cạnh đó, đối với việc cải cách thủ tục hành chính, các doanh nghiệp cho rằng cần nghiên cứu các phương án liên thông tối đa các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ tại một cơ quan rồi cơ quan đó chuyển hồ sơ cho các cơ quan khác. Cho phép doanh nghiệp làm nhiều thủ tục đồng thời, hạn chế tối đa việc phải xong thủ tục này mới được làm thủ tục khác. Các địa phương, thậm chí các bộ, cần sớm thực hiện mô hình trung tâm hành chính công một cửa, tăng cường cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá cán bộ tiếp nhận và xử lý thủ tục hành chính. 

Đặc biệt, theo kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp công tác tổ chức đối thoại cần giao cho các hiệp hội doanh nghiệp chuẩn bị về mặt nội dung cũng như mời doanh nghiệp đến tham dự đối thoại. Cần nghiên cứu để có cơ chế giải quyết vướng mắc của doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn, như cần có một cơ quan, tổ chức độc lập khách quan giám sát quá trình giải quyết, đồng thời cần có đánh giá công khai kết quả giải quyết vướng mắc từ các doanh nghiệp. 

Về thanh kiểm tra, các tỉnh cần giao nhiệm vụ cho cơ quan thanh tra tỉnh làm đầu mối kiểm soát các hoạt động thanh kiểm tra doanh nghiệp trong tỉnh, kể cả các cuộc thanh kiểm tra của các bộ ngành trung ương. Theo đó, mọi cuộc thanh tra theo kế hoạch phải được thông báo trước cho cơ quan thanh tra tỉnh để sắp xếp và bố trí nhằm đạt 3 mục tiêu: giảm số lần và thời gian thanh, kiểm tra; không thanh, kiểm tra trùng lặp; tăng tối đa số đoàn liên ngành, thay vì mỗi đơn vị tiến hành riêng lẻ, áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra. Đây cần phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các bộ ngành, chứ không thể chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu, cân nhắc áp dụng như hiện nay. 

Để cải thiện môi trường kinh doanh cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng các bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục tăng cường công khai minh bạch thông tin trên website cơ quan chính quyền, đặc biệt là việc đăng tải đầy đủ các thông tin như các quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương, các dự án đầu tư công, đấu thầu, các dự án kêu gọi đầu tư, các dự án đối tác công tư. Những thông tin về phản hồi, đánh giá, phản ánh vướng mắc kiến nghị, khiếu nại của doanh nghiệp cũng cần được chú ý đăng tải, ví dụ như đánh giá mức độ hài lòng của người dân và doanh nghiệp về các thủ tục hành chính của địa phương. Ngoài ra, danh sách các đối tượng bị thanh, kiểm tra theo kế hoạch cũng cần được đăng tải trên website của các cơ quan nhà nước. 

Đại diện cộng đồng doanh nghiệp, ông Vũ Tiến Lộc nhận định, dù Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng tốc độ thay đổi vẫn chưa đạt yêu cầu. 

Ông Lộc dẫn chứng, trong Báo cáo môi trường kinh doanh 2019 (Doing Business 2019) mà Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố, Việt Nam dù tăng so với chính mình, điểm tổng của Việt Nam tăng từ 66,77 lên 68,36, bốn năm gần đây đều liên tục tăng điểm trong Doing Business, nhưng mức độ thay đổi này vẫn còn chậm so với các quốc gia khác. Năm vừa qua Việt Nam được WB ghi nhận có 3 cải cách lớn trong lĩnh vực gia nhập thị trường, thuế và thực thi hợp đồng nhưng so với năm ngoái Việt Nam được ghi nhận tới 5 cải cách, giảm đến 2 cải cách. Và trong năm nay, Trung Quốc được ghi nhận có 7 cải cách, Malaysia được ghi nhận 6 cải cách và thứ hạng hai quốc gia này đang cải thiện rất ấn tượng trong bảng xếp hạng năm nay. Nếu so sánh trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn chưa lọt được vào top 4 nước đứng đầu. Với vị trí 69, Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Singapore (thứ 2), Malaysia (thứ 15) hay Thái Lan (thứ 27). Đặc biệt nếu so sánh với 10 quốc gia khác trong Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì Việt Nam là quốc gia đứng cuối cùng, sau cả Peru hay Chilê. Và đáng lưu ý, điểm số và thứ hạng của 10 chỉ số thành phần của Doing Bussiness năm nay thì chỉ có 4 lĩnh vực tăng thứ hạng, 5 lĩnh vực tăng điểm số. 

Như vậy, theo ông Lộc, để thứ hạng Việt Nam tăng mạnh mẽ hơn nữa thì cần có sự chuyển động đồng đều và mạnh mẽ của tất cả các ngành và lĩnh vực./.

Minh Phương

359 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.

Thống kê truy cập - Kinh tế

Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 671
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 671
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 78100793