Số lượng HTX thành lập mới tăng lên. Doanh thu và thu nhập của người lao động trong HTX được cải thiện. Trình độ cán bộ quản lý HTX được nâng cao rõ rệt. HTX từng bước hoạt động ổn định, lành mạnh, phát triển cả về quy mô, công nghệ, thị trường… qua đó, tác động tích cực đến kinh tế hộ thành viên, góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị, xã hội tại cộng đồng.
Tại Hội thảo tham vấn dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW diễn ra ngày 29/7 vừa qua do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh HTX Việt Nam tổ chức, các nhà quản lý, các chuyên gia đã nhấn mạnh tới hiệu quả của Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT.
Khu vực KTTT đang nỗ lực tự đổi mới
Mô hình kinh tế hợp tác xã sau thực hiện Nghị quyết 13 đang phát huy hiệu quả trong thực tế (Ảnh: HNV)
Theo Cục trưởng Cục Phát triển Hợp tác xã Nguyễn Văn Đoàn, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên có Nghị quyết chuyên đề số 13/NQ-TW với mục tiêu đến năm 2020 “Đưa KTTT thoát khỏi những yếu kém hiện nay, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế” và “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với KTTT ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Mục tiêu này được Đảng tiếp tục duy trì và khẳng định tại các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vai trò của KTTT trong nền kinh tế quốc dân có sự thay đổi lớn, chủ yếu là hỗ trợ hoạt động kinh tế, đời sống của thành viên thông qua cung ứng sản phẩm, dịch vụ, việc làm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, phát triển cộng đồng và thực hiện dân chủ hóa ở cơ sở. Đây là phương hướng phát triển tất yếu của khu vực KTTT, phù hợp với xu hướng quốc tế và thích hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam, vừa tăng tính cạnh tranh vừa bảo vệ kinh tế hộ thành viên trong nền kinh tế thị trường.
Có thể thấy, sau 15 năm triển khai Nghị quyết số 13/NQ-TW, khu vực KTTT, mà nòng cốt là HTX, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đang nỗ lực tự đổi mới, có những chuyển biến tích cực. Số lượng HTX thành lập mới tăng lên. Doanh thu và thu nhập của người lao động trong HTX được cải thiện. Trình độ cán bộ quản lý HTX được nâng cao rõ rệt. HTX từng bước hoạt động ổn định, lành mạnh, phát triển cả về quy mô, công nghệ, thị trường… qua đó, tác động tích cực đến kinh tế hộ thành viên, góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị, xã hội tại cộng đồng.
Cũng theo Cục trưởng Nguyễn Văn Đoàn, mặc dù đã có sự chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả bước đầu đáng khích lệ, nhưng sự phát triển của khu vực KTTT, HTX vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, còn tồn tại nhiều hạn chế về cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện công tác quản lý nhà nước cũng như hạn chế trong nội tại các HTX.
Trong khi đó, Phó Cục trưởng Cục Phát triển HTX Đặng Văn Thanh lại cho biết, trên cơ sở báo cáo tổng kết của các bộ, ngành, các tổ chức chính trị xã hội, hiệp hội và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết và xin ý kiến bằng văn bản các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương để hoàn thiện Báo cáo.
Thể chế hóa các chính sách hỗ trợ KTTT
Dự thảo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu rõ, từ năm 2002 đến nay, sau 15 năm triển khai thi hành Nghị quyết số 13-NQ/TW, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về HTX đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Công tác thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết đã được Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban ngành, địa phương nghiêm túc thực hiện và đã đạt được những kết quả nhất định. Theo đó, Quốc hội đã thông qua Luật HTX năm 2003, Luật HTX năm 2012 cùng với các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước, tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho HTX phát triển. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2016/QH14 ngày 23/11/2016 về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, trong đó quy định xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo môi trường thuận lợi cho các HTX nông nghiệp phát triển; phấn đấu đến năm 2020 có 15.000 HTX và liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả; thúc đẩy và nhân rộng các mô hình liên doanh, liên kết có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương và địa phương thực hiện tinh thần của Nghị quyết về KTTT. Các địa phương đã xây dựng, ban hành Nghị quyết của Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy về triển khai thi hành Nghị quyết số 13-NQ/TW và có 61/63 tỉnh, thành phố có chính sách riêng hỗ trợ cho khu vực KTTT, HTX.
Qua 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-TW, nhận thức các quan điểm phát triển KTTT của các cấp ủy Đảng, chính quyền đã có sự chuyển biến tích cực. Từ chỗ không nhận thức đầy đủ, thống nhất về bản chất của tổ chức HTX đến nay đã từng bước hiểu rõ bản chất HTX là phục vụ thành viên, thấy được vai trò, vị trí, tính tất yếu khách quan của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội đã từng bước phân biệt sự khác nhau giữa HTX với doanh nghiệp hoặc giữa HTX với các tổ chức xã hội, từ thiện.
Vậy là, Nghị quyết số 13/NQ-TW đã tác động tích cực đến tâm lý xã hội, xóa dần những mặc cảm do mô hình HTX kiểu cũ để lại, nhận thức của Nhân dân về mô hình HTX kiểu mới theo Luật HTX năm 2012 được nâng cao. Cán bộ, đảng viên phần lớn đã thấy được sự cần thiết của mô hình KTTT, HTX trong việc tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đại bộ phận nông dân đã nhận thức được sự cần thiết của việc hợp tác, liên kết với nhau để cùng phát triển. Thành viên, người lao động trong HTX nhận thức rõ hơn về các nguyên tắc hoạt động trong HTX, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ của HTX, về vai trò của HTX đối với nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống của thành viên. Người dân tin tưởng hơn vào đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển KTTT.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền trong việc đổi mới, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, tổ hợp tác có chuyển biến tích cực, tập trung và quyết liệt hơn. Các địa phương cơ bản đã làm tốt công tác lãnh đạo, cụ thể hóa mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết thành các chương trình hành động, kế hoạch để triển khai đạt hiệu quả.
Chuyển biến tích cực trong phát triển mô hình hợp tác xã
Hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tổ chức tại Hà Nội (Ảnh: MPI)
Theo dự thảo Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của 63 tỉnh, thành phố, tính đến ngày 31/12/2018, toàn quốc có 23.318 HTX, thu hút gần 6 triệu thành viên tham gia. Số lượng HTX tăng 8.911 HTX (khoảng gần 62%) so với năm 2003, trong khi số thành viên HTX giảm 352.047 người so với năm 2003 (do từ sau khi Luật HTX năm 2012 được ban hành và có hiệu lực các HTX tự điều chỉnh, thanh lọc, các HTX hoạt động đúng bản chất sẽ hoạt động hiệu quả hơn, phục vụ các thành viên tốt hơn ngược lại các HTX yếu kém, không hoạt động sẽ giải thể hoặc chuyển sang hình thức khác phù hợp hơn, số lượng thành viên giảm mạnh giai đoạn 2016-2017 và tăng nhẹ vào năm 2018). Trong giai đoạn này, số lượng HTX thành lập mới là 8.979 HTX nhưng số HTX giải thể lên tới 6.303 HTX.
Số liệu trên cho thấy, tổng số HTX tăng không nhiều, mới chỉ bắt đầu tăng nhẹ từ năm 2017 và năm 2018, nhưng thời gian 5 năm trở lại đây (từ khi Luật HTX năm 2012 có hiệu lực) hoạt động của HTX đi vào thực chất hơn, số HTX mới thành lập hoạt động tương đối đúng luật và hiệu quả. Một số Liên hiệp HTX hoạt động chưa chặt chẽ, chưa hiệu quả đã được giải thể theo đúng quy định của pháp luật.
Tính đến ngày 31/12/2018, số lao động làm việc trong HTX là 1.150.173 người, tăng 128.390 người so với thời điểm ngày 31/12/2003 (khoảng 12,5%). Trong hai năm 2016 và 2017 số thành viên giảm mạnh so với thời điểm ngày 31/12/2003 là do các tỉnh rà soát cho giải thể những HTX ngừng hoạt động lâu năm, chỉ có tên trên danh nghĩa, hoạt động không đúng bản chất… Qua đó đã làm lành mạnh khu vực HTX, từng bước đưa các HTX hoạt động đúng bản chất là phục vụ thành viên.
Nhìn chung, sau 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, mặc dù tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều bất ổn, nợ công cao, ngân sách hạn hẹp, nhưng khu vực HTX lại hoạt động khá ổn định. Số lượng HTX tăng theo từng năm, phát triển khá đồng đều trên vùng miền, chất lượng hoạt động được nâng lên. Các HTX từng bước hoạt động đúng bản chất, ngày càng tập trung hơn vào việc hỗ trợ kinh tế hộ thành viên thông qua cung cấp các dịch vụ hoặc việc làm cho thành viên, nhất là thành viên HTX nông nghiệp. Quy mô, vốn và các lĩnh vực hoạt động của HTX được mở rộng hơn, nhiều HTX có quy mô toàn xã. Nhiều loại hình HTX mới được thành lập như HTX môi trường, HTX trường học, HTX y tế… Trình độ cán bộ quản lý HTX được nâng cao rõ rệt. Một số HTX có đội ngũ cán bộ tâm huyết, có kinh nghiệm, nhạy bén với cơ chế thị trường, mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh của HTX.
Thông qua HTX, các hộ thành viên có điều kiện tham gia và được hỗ trợ của Nhà nước, của các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Nhờ đó, thu nhập của người lao động cũng như của thành viên, hộ thành viên được cải thiện, góp phần giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Vị trí, vai trò, tầm quan trọng của HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nâng lên, tạo thuận lợi để nhiều HTX kiểu mới được thành lập.
Gần đây, số lượng HTX sản xuất theo chuỗi giá trị ngày càng gia tăng, đang dần trở thành phương thức sản xuất phổ biến để phát triển bền vững. Trong năm 2018, cả nước có gần 1.200 HTX tổ chức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều HTX liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh. Một số HTX đã chủ động nghiên cứu, mở rộng thị trường, không những trong nước mà còn xuất khẩu...
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế như việc học tập, quán triệt Nghị quyết chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả chưa cao, còn nặng tính hình thức. Một số cấp ủy Đảng vẫn chưa thấy rõ vai trò của HTX trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nên mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chưa có chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện, không có cơ chế chính sách hỗ trợ cho các HTX trong quá trình thực hiện.
Luật HTX và các văn bản hướng dẫn quy định các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các HTX nhưng thực tế các chính sách này đi vào cuộc sống không nhiều. Có chính sách hầu như chưa thực hiện được như chính sách hỗ trợ về kết cấu hạ tầng. Một số chính sách thực hiện chưa hiệu quả như chính sách ưu đãi tín dụng, hỗ trợ chế biến sản phẩm…; số lượng HTX được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước còn hạn chế. Một số quy định tại Luật còn chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc có hướng dẫn thì chưa khả thi dẫn đến khó triển khai.
KTTT, HTX bước đầu có cải thiện về lượng và chất nhưng phát triển chưa đồng đều đối với các lĩnh vực, vùng miền. HTX chủ yếu cung cấp dịch vụ đầu vào cho thành viên, còn việc liên kết với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra cho thành viên còn hạn chế. KTTT phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được vai trò, vị trí trong nền kinh tế đất nước, tốc độ tăng trưởng chưa cao và đóng góp vào GDP giảm dần qua các năm. Tổ chức HTX chưa hiệu quả, chưa hấp dẫn thành viên, Nhân dân và tổ chức tham gia, chưa phát huy được vai trò chủ thể kinh tế quan trọng trong nền kinh tế.
Chưa xây dựng được nhiều mô hình HTX kiểu mới quy mô lớn, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị nông sản thông qua hợp đồng kinh tế. Việc phổ biến, nhân rộng mô hình HTX hoạt động hiệu quả chưa được triển khai rộng rãi giúp cho người dân tin tưởng vào các lợi ích về kinh tế - xã hội do HTX mang lại.
Để thúc đẩy phát triển KTTT trong thời gian tới
Về quan điểm phát triển KTTT, dự thảo Báo cáo nêu rõ, giữ vững quan điểm khẳng định KTTT là thành phần kinh tế quan trọng cùng kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII và Cương lĩnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn tới.
Phát triển KTTT theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa IX) phải xuất phát từ nhu cầu của người dân, tổ chức tham gia, phải tôn trọng giá trị, nguyên tắc hoạt động của tổ chức HTX theo quy định của Luật HTX năm 2012 và phù hợp với điều kiện, đặc điểm, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển KTTT thông qua việc tạo khung pháp luật, ban hành các chính sách hỗ trợ, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội.
Phát triển KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Liên kết rộng rãi các hộ nông dân, người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn để bảo đảm lợi ích của thành viên.
Đồng thời, chú trọng phát triển KTTT trong lĩnh vực nông nghiệp, nòng cốt là HTX với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng, góp phần hình thành chuỗi giá trị trong nông nghiệp gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích chủ thể tham gia cũng như tạo điều kiện hình thành những mô hình liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp - HTX - nông dân gắn với ứng dụng công nghệ cao.
Bên cạnh đó, phát triển KTTT phải gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước; phát huy vai trò của Liên minh HTX Việt Nam và cả bộ máy chính trị trong phát triển KTTT…
Theo dự thảo Báo cáo, mục tiêu phát triển KTTT, HTX trong thời gian tới là sớm khắc phục các yếu kém, hạn chế hiện nay, tiếp tục củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT. Xây dựng và phát triển mô hình KTTT, nòng cốt là HTX bền vững trên cơ sở tôn trọng bản chất, các giá trị và nguyên tắc HTX, phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành viên. Thu hút ngày càng nhiều nông dân, hộ kinh tế cá thể và tổ chức tham gia KTTT, HTX, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện công bằng xã hội. Đưa khu vực KTTT thực sự trở thành lực lượng to lớn, cùng kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và cùng kinh tế thành viên góp phần ngày càng quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước cả về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Nâng cao hình ảnh và vị thế của khu vực KTTT, HTX trong xã hội.
Để khắc phục được những tồn tại, hạn chế và đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu đề ra, dự thảo Báo cáo đưa ra các giải pháp về nâng cao nhận thức về KTTT, HTX; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực KTTT, HTX, Liên hiệp HTX; hoàn thiện cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về KTTT, HTX, các tổ chức chính trị - xã hội liên quan đến KTTT, HTX để nâng cao hiệu quả quản lý, tư vấn, hỗ trợ phát triển THT, HTX, Liên hiệp HTX; đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của THT, HTX, Liên hiệp HTX; hỗ trợ, xây dựng các mô hình KTTT, HTX kiểu mới phù hợp với bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; tư vấn, hỗ trợ các THT, HTX, Liên hiệp HTX ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm truyền thống của các Liên hiệp HTX, HTX, THT, nông dân; tập trung nguồn lực từ ngân sách nhà nước và thị trường để hỗ trợ các mô hình HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị làm cơ sở để triển khai nhân rộng; bảo vệ tài nguyên, môi trường, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai thông qua mô hình KTTT, HTX, Liên hiệp HTX; tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển KTTT, HTX./.
Lê Anh