Đây là vấn đề được các đại biểu nhận định tại Hội nghị truyền thông về xuất khẩu lao động do Cục Quản lý lao động ngoài nước và Tạp chí Lao động và Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH) tổ chức ngày 3-4/10/2019, tại Quảng Ninh.
Ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước phát biểu tại Hội nghị (Ảnh: KT)
Đổi thay nhờ xuất khẩu lao động
Đánh giá về công tác xuất khẩu lao động (XKLĐ) trong những năm qua, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh, công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. “Năm 2017, XKLĐ đạt được con số kỷ lục với trên 134 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt 28,3% so với kế hoạch năm. Năm 2018 tiếp tục là một năm thành công trong lĩnh vực XKLĐ với tổng số lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài đạt hơn 142 nghìn người, vượt 30% so với kế hoạch, là năm thứ năm liên tiếp có số lượng vượt mức 100.000 lao động. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã được tổng số gần 67 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 55,82% kế hoạch năm 2019. Tính chung từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã đưa được hơn 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài”.
Cùng với số lượng, chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng không ngừng được nâng cao; ngành nghề đưa đi được mở rộng, trong đó có nhiều ngành nghề mới như: Điều dưỡng, hộ lý, lao động trong một số lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lao động có tay nghề, kỹ thuật cao. Các thị trường chính của Việt Nam tiếp tục được củng cố và tăng cường, đặc biệt là thị trường khu vực Đông Bắc Á, Trung Đông, Malaysia và gần đây là một số thị trường châu Âu cũng có những tín hiệu tích cực về việc tiếp nhận lao động Việt Nam.
Không chỉ vậy, hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng từng bước đi vào nền nếp. Nhiều doanh nghiệp đã và đang chủ động tìm kiếm, phát triển thị trường, đầu tư bài bản cho công tác tạo nguồn lao động và đào tạo nâng cao tay nghề, ngoại ngữ cho lao động trước khi xuất cảnh. “Hiện nay cả nước đã có 362 doanh nghiệp có giấy phép dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với khoảng 500.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà thông tin.
Hoạt động XKLĐ đã và đang đóng góp quan trọng vào công tác giải quyết việc làm hàng năm, bình quân khoảng 10% tổng số lao động được giải quyết việc làm của cả nước. Với mức thu nhập tốt, nhiều lao động sau khi đi xuất khẩu lao động về nước đã có cuộc sống tốt hơn. “Hiệu quả của chương trình XKLĐ không chỉ được đo, đếm bằng hàng tỷ USD mà người lao động từ hàng chục thị trường ngoài nước gửi về hàng năm, mà còn góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương có đông người đi XKLĐ, làm thay đổi bộ mặt nhiều vùng quê với hệ thống hạ tầng khang trang; cùng với đó là tạo ra một đội ngũ nhân lực chất lượng cao được tôi luyện dài ngày trong môi trường làm việc tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay” – Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà đánh giá.
Làm rõ thêm về hiệu quả của XKLĐ, GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn – Trường Đại học Thăng Long dẫn báo cáo kết quả giám sát chuyên đề XKLĐ giai đoạn 2013-2017 của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội: Bình quân thu nhập (kể cả làm thêm) của người lao động đi làm việc ở nước ngoài là 400 - 600 USD/tháng ở thị trường Trung Đông, 700 - 800 USD/tháng ở thị trường Đài Loan (Trung Quốc), 1000 - 1.200 USD/tháng ở thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản.
Ông cho biết, cơ quan giám sát nhận định sự gia tăng số lượng lao động làm việc ở các thị trường có thu nhập cao đưa Việt Nam trở thành một trong số những nước có lượng kiều hối lớn. Cụ thể, hằng năm, lượng tiền người lao động gửi về nước khoảng 2 - 2,5 tỷ USD, với mức tăng trung bình trong giai đoạn từ 2010-2017 là 6-7%/năm. Riêng tại Hà Tĩnh, theo báo cáo của UBND tỉnh, có năm lượng tiền gửi về nước hơn 4.000 tỷ đồng, xấp xỉ bằng 50% tổng thu nội địa trong tỉnh.
Lao động mất điểm vì kỷ luật kém
Trả lời câu hỏi lao động xuất khẩu của Việt Nam đang ở đâu so với các nước? GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng, mặc dù số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài liên tục gia tăng nhanh nhưng chất lượng hiện vẫn còn thấp so với mặt bằng chung các nước trong khu vực.
Ông ví tiếng Anh là “chìa khóa” để người lao động mở cửa kho báu khi đi làm việc nhưng đây lại là một điểm yếu của lao động di cư Việt Nam. Cụ thể, các ứng viên Việt Nam có điểm trung bình IELTS là 5,78 điểm, thuộc nhóm trung bình thấp, đứng sau Malaysia (6,64 điểm); Philippines (6,53 điểm) và xấp xỉ Indonesia (5,79 điểm).
Lao động có trình độ chuyên môn cao vẫn chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Số lượng kỹ sư và kiến trúc sư đạt tiêu chuẩn ASEAN cũng thấp hơn so với nước bạn như: Indonesia và Myanmar.
Vẫn theo PGS. TS Nguyễn Cảnh Toàn, sự chuẩn bị của lao động đến làm việc ở ASEAN, Đông Bắc Á nói riêng và các nước khác nói chung còn yếu, thiếu nhiều mặt như: Đào tạo ngôn ngữ, trang bị tối thiểu về luật pháp, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của quốc gia nói trên, nên việc chấp hành luật pháp còn yếu kém; không hiếm xung đột vì độ hòa nhập, thích nghi còn yếu. Hiện tượng bỏ nơi làm việc, tự do làm việc ở nơi khác và trốn ở lại khi quá hạn, gây bức xúc dư luận và nhà cầm quyền nước sở tại, ảnh hưởng không nhỏ cho kế hoạch chung xuất khẩu lao động của Bộ LĐ-TB&XH.
Đồng tình với những phân tích trên, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh – Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam cũng cho rằng, các điểm yếu của lao động Việt Nam là: Ngoại ngữ, ý thức tổ chức kỷ luật, tay nghề.
Ông đặc biệt đề cập đến tình trạng ý thức tổ chức kỷ luật của lao động Việt Nam kém hơn so với các các nước khác. Điển hình là tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Hàn Quốc vẫn cao dù cả phía Việt Nam và Hàn Quốc đã có nhiều phương án tuyên truyền, kêu gọi lao động về nước đúng hạn hợp đồng. Thực tế, tỷ lệ lưu trú bất hợp pháp cao không chỉ làm xấu hình ảnh người Việt Nam cần cù, chịu khó mà đã làm gián đoạn chương trình hợp tác lao động.
Trong khi đó, câu chuyện được TS Trần Thị Minh Phương – Trường Đại học Lao động và Xã hội đưa ra là có những bộ phận lao động rủ nhau làm các công việc phi pháp như nấu rượu, buôn bán động vật hoang dã, lập bè nhóm gây mất đoàn kết, đánh chửi nhau... Những hiện tượng xấu khác là gây mất trật tự, mất vệ sinh, hút thuốc lá nơi ở, nơi công cộng, trốn vé tàu, xe, lừa lách vé cước điện thoại, Internet...
Dưới góc độ cơ quan quản lý, ông Nguyễn Gia Liêm, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước chia sẻ, theo quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, cùng với yêu cầu của thị trường lao động ngoài nước, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc tổ chức đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Thế nhưng, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài, hoặc thông qua hoạt động đào tạo nghề, ngoại ngữ cho người lao động đề kinh doanh dịch vụ đào tạo làm tăng chi phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Định hướng về việc sửa đổi luật thời gian tới, ông cho biết, một trong những vấn đề được quan tâm là về công tác đào tạo nghề và bồi dưỡng kiến thức. Theo đó, sẽ sửa đổi, bổ sung những quy định về dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho phù hợp, nhằm khai thác có hiệu quả hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã được đầu tư trong thời gian qua, đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật của các thị trường tiếp nhận.
Song song đó là sửa đổi, bổ sung quy định bắt buộc về trình độ ngoại ngữ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Ông Nguyễn Gia Liêm cũng nhấn mạnh đến việc thiết kế các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ, các kỹ năng cần thiết cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhà nước có chính sách hỗ trợ đối với người lao động là đối tượng chính sách xã hội để học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết; có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở những nước phát triển và có mức thu nhập cao trong một số ngành nghề, lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật mà trong nước đang có nhu cầu đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực./.
Kim Thanh