Kinh tế thế giới suy yếu, biến động khó lường, tác động tiêu cực tới Việt Nam
Năm 2023, kinh tế Việt Nam đã đi được 3/4 quãng đường trong bối cảnh kinh tế thế giới có triển vọng tiêu cực. Cụ thể là, tăng trưởng toàn cầu giảm tốc do chính sách thắt chặt tiền tệ, cuộc chiến ở Ukraine tiếp tục đè nặng lên các hoạt động kinh tế.
Kinh tế khu vực Eurozone đang rơi vào tình trạng trì trệ khi GDP quý II/2023 tăng 0,1%, thấp hơn mức dự báo 0,3%. Kinh tế Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, được ví như trái tim của cựu lục địa đang rơi vào tình trạng đình trệ, thiếu hụt động lực, có nguyên nhân từ các vấn đề về cấu trúc, điển hình là nỗ lực kiềm chế lạm phát thông qua chính sách liên tục tăng lãi suất dẫn đến kìm hãm mọi ngành sản xuất. Giá dầu thô tăng, lên mức trên ngưỡng 90USD/thùng gây áp lực gia tăng lạm phát trong những tháng tới.
Áp lực lạm phát dai dẳng khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tiếp tục tăng lãi suất để đưa lạm phát dần về mức lạm phát mục tiêu. Ngày 26/7, Fed đã tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm, nâng lãi suất chính sách lên mức 5,25-5,5%, mức cao nhất trong vòng 22 năm. Chỉ một ngày sau, ECB tăng lãi suất lên mức 3,75% mức cao kỷ lục trong vòng 23 năm qua.
Các vấn đề về tài chính của Mỹ và châu Âu đang gây thêm bất ổn cho kinh tế thế giới vốn đã phức tạp. Nợ quốc gia của Mỹ đã vượt qua mức kỷ lục 32.000 tỷ USD lần đầu tiên trong lịch sử. Bên cạnh nợ công, chi phí lãi vay tăng cao đòi hỏi chính phủ các nước phải tiếp tục củng cố tài khóa. Điều này làm giảm tổng cầu thế giới, tác động tiêu cực tới các nền kinh tế có chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu như Việt Nam.
Thương mại toàn cầu bắt đầu suy giảm từ quý IV/2022, kéo theo thương mại toàn cầu cả năm 2022 chỉ tăng 2,7%. Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn do ảnh hưởng của xung đột tại Ukraine, tình trạng lạm phát cao dai dẳng, chính sách tiền tệ thắt chặt và thị trường tài chính bấp bênh, Tổ chức Thương mại Thế giới dự báo thương mại toàn cầu năm 2023 tăng 1,7%, thấp hơn 1 điểm phần trăm so với năm trước.
Tổng cầu của các nền kinh tế là đối tác thương mại chính của Việt Nam còn yếu, tác động tiêu cực tới kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2023 giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch của một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, là hàng hóa tiêu dùng thiết yếu có giá trị thấp trong chi tiêu của hộ gia đình nước ngoài giảm mạnh, ở mức 2 con số: Điện thoại các loại và linh kiện giảm 13,4%; giày dép các loại giảm 18,2%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 21,3%; thủy sản giảm 21,7%; dệt may giảm 12,1%; túi xách, ví, va ly, mũ, ô dù giảm 10,4%.
Mỹ - thị trường xuất khẩu, cũng là thị trường xuất siêu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 9 tháng năm nay đạt 70,9 tỷ USD, chiếm 23,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế, giảm 16,8%. Xuất siêu sang Mỹ giảm 18% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng kim ngạch nhập khẩu của nền kinh tế có đến 93,7% là tư liệu sản xuất, trong 9 tháng giảm 13,9%, phản ánh hoạt động sản xuất suy giảm do tổng cầu thế giới và trong nước chưa phục hồi.
Doanh nghiệp Việt "gồng mình" trong tình cảnh đầy khắc nghiệt
Trong 9 tháng năm 2023 hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp vô vàn khó khăn, đơn hàng sụt giảm. Xu hướng ngày càng gia tăng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam khiến doanh nghiệp bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường xuất khẩu. Đến hết tháng 6/2023, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với 231 vụ việc phòng vệ thương mại do các nước khởi kiện; trong đó đứng đầu là các vụ kiện chống bán phá giá, với 128 vụ, chiếm 55,4%.
Trong 8 tháng năm 2023, chỉ có tháng 2 và tháng 8 chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tương ứng đạt 51,2 điểm và 50,5 điểm, các tháng còn lại, chỉ số PMI đều dưới ngưỡng 50 điểm. Đặc biệt, chỉ số PMI tháng 5/2023 đã giảm xuống 45,3 điểm, mức giảm thấp nhất kể từ tháng 11/2022, phản ánh sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới, hoạt động mua hàng và việc làm giảm.
Với 6 trong 8 tháng năm nay chỉ số PMI các ngành sản xuất Việt Nam liên tục dưới ngưỡng 50 điểm cho thấy bức tranh ảm đạm trong sản xuất kinh doanh, có nguyên nhân sâu xa từ nhu cầu thế giới và trong nước suy giảm. Mặc dù chỉ số PMI tháng 8/2023 lần đầu đã tăng trở lại sau 6 tháng nhưng việc làm tiếp tục giảm nhẹ, tồn kho thành phẩm tăng tháng thứ hai liên tiếp, chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm đầu ra đều tăng. Điều này cho thấy sự cải thiện nói chung còn yếu khi lực cầu vẫn mong manh. Do đó, còn quá sớm để nói các ngành sản xuất đã phục hồi.
Tình trạng thiếu điện từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6/2023 do đợt nắng nóng đã gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp. Ngân hàng Thế giới ước tính kinh tế Việt Nam bị thiệt hại khoảng 0,3% GDP, tương đương 1,4 tỷ USD do thiếu điện. Hạn chế đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền tải và lưới điện trong thời gian qua là minh chứng về việc chúng ta đang gây khó cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng tới tiềm năng tăng trưởng của đất nước.
Cùng với suy giảm đơn hàng, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh cạn kiệt nguồn vốn. Trái phiếu doanh nghiệp đến kỳ đáo hạn, vốn vay ngân hàng đến kỳ phải trả, việc hoàn thuế và dòng tiền về chậm khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, sản xuất cầm chừng.
Bên cạnh những khó khăn, thách thức về thị trường tiêu thụ và vốn, doanh nghiệp còn phải xử lý những bất cập trong nội tại của nền kinh tế, đó là thể chế, chính sách còn mâu thuẫn, điều kiện kinh doanh tồn tại nhiều rào cản khó vượt,… Đặc biệt, sự chậm trễ, kém hiệu quả trong thực thi các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp do một số bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền đã đẩy doanh nghiệp lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn.
Trong 9 tháng năm 2023, cứ 10 doanh nghiệp gia nhập thì có 8 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Nhất là trong thời điểm cuối quý I/2023, lần đầu tiên xảy ra tình cảnh số doanh nghiệp rút khỏi thị trường cao hơn số doanh nghiệp mới tham gia và quay trở lại thị trường. Bình quân một tháng trong quý I có gần 19.000 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, trong khi đó có gần 20.100 doanh nghiệp rút khỏi thị trường,...
Chính phủ đã luôn đồng hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và các hộ sản xuất kinh doanh.
Chính phủ luôn đồng hành cùng doanh nghiệp
Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp, Chính phủ đã luôn đồng hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và các hộ sản xuất kinh doanh.
Trong chỉ đạo, điều hành, Chính phủ bám sát phương châm: "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả", từ đầu năm đến nay nhiều chính sách, giải pháp đã được Chính phủ và các địa phương khẩn trương ban hành, triển khai thực hiện, khắc phục các điểm nghẽn và bất cập của nền kinh tế, tạo hiệu ứng tích cực và niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh.
Trong 9 tháng năm 2023, Chính phủ đã thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa linh hoạt, đặc thù, phù hợp với diễn biến và thực tiễn tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới.
Ngày 6/1/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.
Nghị quyết đã đề cập khá toàn diện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023.
Chính sách tài khóa: Hiệu quả, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
Chính phủ đã thực hiện có trọng tâm chính sách tài khóa nhằm tháo gỡ một phần khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường đầu ra trầm lắng. Ngày 14/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2023/NĐ-CP, cho phép giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí với tổng quy mô gói hỗ trợ khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng.
Đồng thời, Chính phủ cũng gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng (thuế VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, giảm 30% tiền thuê đất, thuê mặt nước của năm 2023. Bên cạnh đó, Ngành Tài chính đã khẩn trương tháo gỡ vướng mắc, tiến hành hoàn thuế VAT, giảm bớt một phần khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.
Trước thực tế tổng cầu tiêu dùng trong nước còn yếu, Nghị quyết giảm 2% thuế VAT được Quốc hội thông qua và thực hiện từ ngày 1/7/2023 có tác động trực tiếp làm tăng tổng cầu tiêu dùng của nền kinh tế, khơi thông thị trường tiêu thụ, giải quyết lượng hàng tồn kho, nợ đọng vốn, hỗ trợ doanh nghiệp từng bước phục hồi, mở rộng sản xuất, đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động.
Cùng với thực hiện chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và chính sách an sinh xã hội. Trong 9 tháng năm 2023, thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 1223,8 nghìn tỷ đồng, bằng 75% dự toán năm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra trong tình cảnh đầy khắc nghiệt, kết quả thu ngân sách 9 tháng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó là: Đảm bảo cân đối thu-chi, giữ vững ổn định ngân sách nhà nước; tạo dựng nền tảng và cơ sở để phát huy tối đa vai trò quan trọng của chính sách tài khoá nghịch chu kỳ nhằm kích cầu tiêu dùng và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định vĩ mô; kết quả thu ngân sách Nhà nước 9 tháng còn tạo nguồn lực tài chính thực hiện chính sách an sinh xã hội, chi cho các mục tiêu quốc gia.
TS. Nguyễn Bích Lâm: Am hiểu tình hình, Chính phủ ban hành giải pháp mang tầm chiến lược, đồng thời xử lý các vấn đề trước mắt, mới phát sinh hỗ trợ doanh nghiệp ổn định, phát triển.
Chính sách tiền tệ: Khác biệt, đột phá so với thế giới
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã thực thi chính sách tiền tệ khác biệt, mang tính đột phá so với các nước trên thế giới. Việc giảm lãi suất điều hành có hiệu lực từ ngày 15/3/2023 khiến Việt Nam trở thành nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ thanh khoản, xử lý vấn đề thiếu vốn của doanh nghiệp và phục hồi kinh tế trong bối cảnh Fed và ECB tiếp tục tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát.
Trong 9 tháng năm 2023, NHNN đã 4 lần liên tiếp giảm lãi suất điều hành hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh có khả năng tiếp cận vốn để phục hồi sản xuất kinh doanh.
Cùng với giảm lãi suất, NHNN đã cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; đồng thời nới lỏng một số điều kiện cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các khoản cho vay bất động sản.
Thị trường bất động sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực. Trong năm 2022 thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn về thể chế, nguồn vốn tín dụng, trái phiếu, việc tổ chức thực thi của địa phương cần được tập trung tháo gỡ, thúc đẩy.
Trước thực trạng này, ngày 1/3/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đặc biệt là về thể chế, tổ chức thực hiện và nguồn vốn cho thị trường bất động sản.
Am hiểu tình hình, Chính phủ ban hành giải pháp mang tầm chiến lược, đồng thời xử lý các vấn đề trước mắt, mới phát sinh, hỗ trợ doanh nghiệp ổn định, phát triển
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế quan trọng, tạo ra trên 60% GDP của nền kinh tế. Nắm bắt kịp thời tình hình khó khăn của doanh nghiệp, ngày 21/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, với các giải pháp xử lý những khó khăn vướng mắc trước mắt, trong ngắn hạn cũng như trong trung và dài hạn.
Nghị quyết bao phủ toàn diện các giải pháp nhằm xử lý những vấn đề tồn đọng trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế; giải quyết trực diện ngay các vấn đề trước mắt, mới phát sinh.
Tập trung tháo gỡ rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực cho đầu tư sản xuất kinh doanh; tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước; nâng cao chất lượng và kỹ năng tay nghề của người lao động; giảm tối đa hoạt động thanh tra, kiểm tra theo quy định, nhằm giảm thiểu việc gây phiền toái, nhũng nhiễu doanh nghiệp bấy lâu nay của một bộ phận các cơ quan nhà nước.
Việc ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP nhằm khơi thông các điểm nghẽn với phương châm "sớm nhất, hiệu quả nhất", huy động và giải phóng các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển.
Những văn bản pháp quy đề cập ở trên cho thấy, Chính phủ luôn khẩn trương, linh hoạt trong thực thi chính sách tiền tệ hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, người dân, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Cùng với nghị quyết, nghị định, quyết định, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành một loạt Chỉ thị, Công điện chỉ đạo kịp thời các bộ, ngành và địa phương xử lý những vấn đề cụ thể, tháo gỡ khó khăn cho phát triển.
Đặc biệt, ngày 19/4/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 280/CĐ-TTg nhằm chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tăng cường trách nhiệm, đẩy mạnh tinh thần dám nói, dám nghĩ, dám làm của một bộ phận cán bộ, công chức tại các bộ, cơ quan trung ương, địa phương; khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong giải quyết công việc; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành.
Công điện số 280/CĐ-TTg phản ánh tinh thần thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật trong chỉ đạo điều hành, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân với mục tiêu tất cả cho phát triển của người đứng đầu Chính phủ.
Chính phủ sát sao, tháo gỡ vướng mắc, quyết tâm thực hiện kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng
"Cỗ xe tứ mã" kéo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 có sức kéo không đồng đều. Cụ thể là, "Ngựa Đổi mới", đảm bảo tính đồng bộ về thể chế và môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế đang chững lại. "Ngựa Tiêu dùng" của thị trường 100 triệu dân tiến về phía trước với bước đi chậm và ngắn; trong 9 tháng đầu năm tổng cầu tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng 3,03%. "Ngựa Xuất khẩu" đang tụt lại phía sau với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giảm 8,2%.
Trong tứ mã, chỉ có "Ngựa Đầu tư", đặc biệt đầu tư công vẫn giữ được phong độ và đang phi nước đại để kéo cỗ xe kinh tế Việt Nam đi nhanh hơn. Trong 9 tháng năm 2023, vốn đầu tư công đã giải ngân được 415,5 nghìn tỷ đồng, bằng 57,4% kế hoạch năm, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Bức tranh giải ngân vốn đầu tư công trong 9 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng. Nhiều công trình, dự án trọng điểm, liên vùng, có tác động lan toả đang được đẩy nhanh tiến độ triển khai, phản ánh nỗ lực rất lớn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công.
Trong quý III/2023, nhiều dự án khởi công mới trong năm đã hoàn thành thủ tục đầu tư, đi vào triển khai thực hiện, đây là tín hiệu về sự bứt phá của hoạt động giải ngân vốn đầu tư công trong những tháng còn lại của năm, là cơ sở để các bộ, cơ quan trung ương, địa phương thực hiện mục tiêu giải ngân 95% kế hoạch đầu tư công của năm nay, bù đắp mức tăng trưởng thấp của một số ngành chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới, góp phần hướng tới thực hiện tối đa mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 đã được Quốc hội thông qua.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 9 tháng năm 2023 là điểm sáng của nền kinh tế trong bối cảnh đầu tư và thương mại quốc tế giảm sút. Vốn FDI thực hiện 9 tháng ước đạt 15,9 tỷ USD, là số vốn thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm 2018-2023, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu năm nay, hơn 50 tập đoàn của Mỹ, trong đó có nhiều tập đoàn công nghệ lớn đã đến tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Kết quả thu hút và thực hiện vốn FDI trong 9 tháng năm 2023 của nền kinh tế cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin vào triển vọng tăng trưởng, môi trường đầu tư và vị thế kinh tế của nước ta. Nhiều tập đoàn nhìn nhận Việt Nam có nhiều cơ hội trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cộng đồng thế giới đánh giá Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới.
Dấu mốc tự hào, biểu tượng tiên phong trong hành trình chinh phục thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt đó là sự kiện VinFast niêm yết trên sàn chứng khoán NASDAQ. Hành trình tiến ra thị trường vốn quốc tế của doanh nghiệp này đã gợi mở cho doanh nghiệp Việt trong thay đổi chiến lược huy động vốn, sẵn sàng cạnh tranh sòng phẳng về công nghệ, giá bán sản phẩm để chinh phục thị trường toàn cầu. Đồng thời truyền cảm hứng cho doanh nghiệp Việt trong hành trình chinh phục thị trường quốc tế.
Chiến lược sản xuất, tiếp cận thị trường của VinFast thể hiện sự linh hoạt, phù hợp với xu hướng sản phẩm thân thiện môi trường, chuyển đổi hoàn toàn sang sản xuất xe điện vào năm 2022. Sự kiện này cũng gợi mở cho Chính phủ cần đổi mới chiến lược đầu tư, đặc biệt đầu tư ra nước ngoài, hỗ trợ doanh nghiệp Việt tham gia vào thị trường vốn quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nền kinh tế vượt khó, lấy lại đà tăng trưởng
Với tư duy đột phá, hành động khẩn trương, linh hoạt, đặt hiệu quả chỉ đạo lên trên hết của Chính phủ; với phương châm chủ động nắm tình hình, bình tĩnh, tự tin, tỉnh táo xác định nhiệm vụ, giải pháp phù hợp trong điều hành kinh tế; với sự đồng hành hiệu quả của Quốc hội, nhiều chính sách, giải pháp ban hành và triển khai thực hiện đúng thời điểm; với tinh thần năng động, linh hoạt, chủ động vượt khó, không khoanh tay đứng nhìn của cộng đồng doanh nghiệp đã đưa kinh tế nước ta vượt khó, đang dần lấy lại đà tăng trưởng, giữ vững ổn định vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn, GDP 9 tháng tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước.
Trong bức tranh tăng trưởng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,43%, là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong xuất siêu 21,68 tỷ USD của cán cân thương mại hàng hoá 9 tháng, đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu lương thực thực phẩm với giá ổn định là nền tảng trong kiểm soát lạm phát bình quân 9 tháng ở mức 3,16%, dự báo lạm phát bình quân cả năm 2023 trong khoảng 3,5-4%, thấp hơn mục tiêu đã được Quốc hội thông qua, tạo dư địa cho điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý.
Kết quả tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2023 phản ánh tăng trưởng được thúc đẩy, tạo đà cho nền kinh tế phục hồi nhanh hơn trong quý IV/2023 và tăng trưởng cao hơn trong năm tới.
Cần làm gì để nền kinh tế phục hồi nhanh, bền vững trong thời gian tới?
Trong thời gian tới, kinh tế thế giới biến động khó lường, với triển vọng không mấy tươi sáng. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, dễ bị tổn thương từ các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, mặc dù kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi nhưng còn mong manh. Để thúc đẩy và hướng tới thực hiện tối đa mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 đã được Quốc hội thông qua, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau.
Trước tiên, với gói giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp: Chính phủ cần tiếp tục khẳng định và thực thi quan điểm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp phát triển, coi việc tháo gỡ rào cản, khó khăn cho doanh nghiệp là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Tạo nền tảng cho doanh nghiệp phục hồi nhanh, phát triển bền vững, có đủ năng lực chủ động thích ứng với các biến động trong tương lai.
Thực hiện đồng bộ chính sách tài khoá và tiền tệ, trong đó chính sách tài khoá là trọng tâm, với cơ chế đặc thù về chính sách thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp của một số lĩnh vực xuất khẩu; hoàn thuế VAT để giải phóng và khơi thông nguồn vốn bị tồn đọng, tạo thanh khoản cho doanh nghiệp.
Đồng thời thực thi chính sách tín dụng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực. Xác định các ngành, lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế, các doanh nghiệp đã khẳng định thương hiệu để có gói tín dụng ưu đãi.
Tiếp tục thực hiện các giải pháp làm giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hạn chế kiểm tra, thanh tra gây khó, nhũng nhiễu doanh nghiệp, không ban hành thêm văn bản gây gánh nặng về thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.
Chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khắc phục đứt gãy nguồn cung, đa dạng hóa đối tác, nhà cung cấp nguyên, nhiên, phụ liệu, linh kiện đầu vào đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh, giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giữ vững năng lực cạnh tranh và thị phần hàng hóa Việt trên thị trường quốc tế, mở rộng thị trường trong nước.
Đặc biệt Chính phủ cần chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Trong đó, điện là loại năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Bộ Công Thương cần dự báo nhu cầu, xây dựng kế hoạch, nhanh chóng thực thi các giải pháp đảm bảo cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Thậm chí, cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu ban hành chế tài, quy định ngành điện phải bồi thường cho doanh nghiệp khi bị cắt điện gây thiệt hại sản xuất.
Kích cầu hiệu quả để tăng trưởng
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và tình hình thực tế trong nước của nền kinh tế. Khẩn trương thực hiện hiệu quả giải pháp kích cầu sẽ tạo hiệu ứng tâm lý tích cực, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào tiềm năng và sự phục hồi nhanh của nền kinh tế.
Cụ thể, về giải pháp kích cầu tiêu dùng: Thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng bằng cách hỗ trợ trực tiếp cho người dân trong tiêu dùng để tăng sức mua; giảm giá hàng tiêu dùng, giảm lãi suất, giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng hỗ trợ an sinh xã hội.
Đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp cho người nghèo. Giữ ổn định, đồng thời thực hiện các đợt khuyến mại giảm giá hàng hoá và dịch vụ. Doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh cần giữ chữ tín, không lợi dụng tăng giá vào mùa cao điểm.
Giải pháp kích cầu đầu tư: Thực hiện giải pháp kích cầu đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chính phủ cần tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, kho cảng, hạ tầng các khu công nghiệp.
Chính phủ cần ưu tiên kích cầu đầu tư vào các dự án sắp hoàn thành, sớm đưa vào sử dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế; các dự án có triển vọng thị trường.
Với ưu điểm về tính chủ động trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ cần có giải pháp phát huy vai trò, gắn trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu bộ, cơ quan Trung ương và địa phương trong giải ngân vốn đầu tư công.
Người đứng đầu phải trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cản trở làm chậm tiến độ giao vốn, giải ngân vốn; Đồng thời khẩn trương nâng cao năng lực của chủ đầu tư, nhà thầu thi công, xây lắp.
Chính phủ nên bố trí giải phóng mặt bằng thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm nâng cao tính sẵn sàng cho việc triển khai dự án. Đồng thời các cơ chế và mức bồi thường giải phóng mặt bằng phải thỏa đáng, bảo đảm quyền lợi cho người dân khi di dời, tái định cư để có sự đồng thuận khi triển khai.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế và quy định cụ thể khoảng cho phép chủ đầu tư được điều chỉnh kịp thời định mức thầu, giá thầu và giá các loại vật tư, vật liệu xây lắp khi có biến động giá trên thị trường; đảm bảo đầy đủ, kịp thời vật liệu xây lắp, đắp nền.
Giải pháp kích cầu xuất khẩu: Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nhằm vực lại ngành sản xuất hướng vào xuất khẩu; đảm bảo giữ được những bạn hàng lớn, đồng thời tăng cơ hội tiếp thị các sản phẩm mới; đưa sản phẩm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đến với toàn cầu.
Trong những năm qua, các nhà quản lý kinh tế không để ý tới vấn đề xuất, nhập khẩu dịch vụ trước thực tế kinh tế Việt Nam luôn trong tình trạng nhập siêu dịch vụ. Theo tính toán nếu giảm 10% nhập siêu dịch vụ sẽ làm GDP tăng 0,36%. Điều này cho thấy tác động rất lớn của giảm nhập siêu dịch vụ đối với thúc đẩy tăng trưởng. Vì vậy, Chính phủ cần xây dựng và thực thi chiến lược tăng cường xuất khẩu, giảm thiểu nhập khẩu dịch vụ, tiến tới xử lý vấn đề nhập siêu dịch vụ.
Trong 3 tháng cuối năm 2023 và những năm tiếp theo, Chính phủ và các địa phương cần đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Đặc biệt, cần có giải pháp dài hạn để từng bước giảm dần nhập siêu, tiến tới xuất siêu dịch vụ vận tải biển, nhằm biến ưu thế bờ biển dài, cửa ngõ giao thương hàng hóa quốc tế, với gần 300 bến cảng biển thành hiện thực đối với xuất khẩu dịch vụ vận tải.
Đối với doanh nghiệp: Phát huy tinh thần chủ động, linh hoạt chuẩn bị đầy đủ các điều kiện duy trì và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Dự báo các loại nguyên, nhiên vật liệu có thể thiếu hụt để chủ động tìm kiếm nguồn và đối tác cung ứng kịp thời.
Đa dạng và đảm bảo nguồn cung cho sản xuất của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành để không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực.
Chủ động nắm bắt, cập nhật thông tin và dự báo chính xác động thái thị trường, nhất là xu hướng, mức độ và lộ trình tăng giá, điều chỉnh lãi suất để chủ động trong xây dựng, điều chỉnh và thực hiện kế hoạch tài chính, kinh doanh.
Đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp vừa là giải pháp ứng phó bất ổn, vừa là công cụ để cạnh tranh chiến lược, nâng cao năng lực và khả năng thích ứng trước các biến động, bất ổn khó lường của kinh tế thế giới. Thực hiện liên kết, chia sẻ nguồn cung nguyên vật liệu; đơn hàng, thị trường; đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất.
Tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo để chủ động ứng phó với khủng hoảng năng lượng, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao, cải thiện hình ảnh thương hiệu, tạo sự khác biệt cho thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường, gia tăng lợi thế cạnh tranh và thu hút các nhà đầu tư.
Với tinh thần quyết tâm vượt khó, với nỗ lực chung của toàn xã hội, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương luôn chủ động, linh hoạt, cùng đồng hành tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực thích ứng với hoàn cảnh khó khăn để duy trì sản xuất, kinh doanh. Kinh tế nước ta sẽ hoàn thành nhiều mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023, tạo thế và lực, tạo niềm tin để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch của giai đoạn 2021-2025./.
Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê