|
Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: VGP/Hoàng Giang
|
Ngày 9/2/2021, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 188/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, đề ra tầm nhìn đến năm 2030, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đạt xếp hạng trong 15 hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mới nổi của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp (DN) KHCN (Bộ Khoa học và Công nghệ) đặc biệt nhấn mạnh đến các sáng kiến về mặt chính sách, khơi thông nguồn lực để nắn dòng chảy vào cho tài sản trí tuệ, cho mô hình kinh doanh mới, cho tăng trưởng của doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp sáng, tạo ra “cú hích” cho hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam.
Thưa ông, với vai trò là đơn vị chủ trì thực hiện Đề án 844 “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”, Bộ KH&CN đã có những việc làm cụ thể nào để hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo?
Ông Phạm Hồng Quất: Thông qua Đề án 844, trong năm 2020, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai một loạt nhiệm vụ ứng phó với đại dịch COVID-19. Đã có một đợt công bố các nhiệm vụ đặc biệt nhấn mạnh giải pháp về nền tảng trực tuyến, nền tảng số để kết nối DN nhỏ và vừa với những giải pháp công nghệ của khởi nghiệp sáng tạo, những ứng dụng công nghệ mới trong y tế, giáo dục, nông nghiệp, trong chuỗi cung cấp dịch vụ logistics, trong thương mại điện tử…
Bộ cũng tổ chức thành công một chuỗi sự kiện kết hợp cả trực tuyến và trực tiếp, đặc biệt là Ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest Vietnam), qua đó giới thiệu, kết nối nhiều sản phẩm công nghệ đến cho cộng đồng DN, xã hội, các nhà đầu tư.
Ngoài ra, Bộ đã thu thập những đề xuất của các tổ chức, chuyên gia hỗ trợ cũng như của cộng đồng khởi nghiệp để kiến nghị Chính phủ lồng ghép, đưa hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vào những chính sách, chương trình do các bộ, ngành khác triển khai như: Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021-2025; Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ...
|
Các diễn đàn khởi nghiệp sáng tạo thu hút nhiều start-up công nghệ thông tin. Ảnh: VGP/Minh Anh
|
Khơi thông, giải phóng nguồn lực
Tình trạng "chảy máu start-up" hoàn toàn có thể xảy ra khi start-up lựa chọn chính phủ, "quốc tịch" và nơi mong muốn hoạt động. Chúng ta có giải pháp gì để tránh tình trạng này cũng như để ươm mầm các start-up Việt?
Ông Phạm Hồng Quất: Quyết định 188/QĐ-TTg mà Thủ tướng mới ban hành đã điều chỉnh, mở rộng Đề án 844, tập trung vào các giải pháp thu hút các nguồn lực trong nước và quốc tế, nguồn lực từ các tập đoàn, từ chuyên gia và các trường đại học để tạo môi trường thuận lợi hơn cho các DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Theo đó, sẽ hình thành các khu làm việc chung, khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo từ tư vấn, huấn luyện, cố vấn, cung cấp thông tin công nghệ, phát triển thị trường, khai thác tài sản trí tuệ và mạng lưới các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, các nhà đầu tư thiên thần, các quỹ đầu tư, các vườn ươm, tổ chức thúc đẩy kinh doanh sẽ được xây dựng và có những hoạt động, diễn đàn cấp cao thường niên để đề ra các giải pháp thiết thực cho các khởi nghiệp sáng tạo, khởi nghiệp công nghệ trong nước, từ đó sẽ có những giải pháp để hỗ trợ trực tiếp cho các DN khởi nghiệp sáng tạo có tiềm năng, đặc biệt là các DN đã đưa sản phẩm ra thị trường và có khả năng tăng trưởng, gọi vốn.
Hiện nay, những vòng gọi vốn sau là series A, series B, series C đang rất ít, tức là lúc đầu các start-up gọi vốn mồi vài chục nghìn USD thì tương đối đơn giản, nhưng đến lúc huy động tới vòng series A (đến vài trăm nghìn USD), series B (một vài triệu USD trở lên) thì môi trường đầu tư còn hạn chế và vì thế dẫn đến tình trạng nhiều start-up ra nước ngoài để tận dụng nguồn lực nước ngoài.
Vì vậy, các tập đoàn, đặc biệt là các tập đoàn lớn, có vai trò vô cùng quan trọng để tạo môi trường cho các start-up đã trưởng thành này, có thể là khách hàng (mua sản phẩm), có thể là mentor (người đồng hành, dìu dắt, huấn luyện), cũng có thể là nhà đầu tư, cung cấp vốn cùng với các quỹ đầu tư.
Hiện nay, những tập đoàn, đặc biệt là các tập đoàn nhà nước, đang có nguồn quỹ phát triển KHCN của DN nhưng chưa khai thác thực sự hiệu quả. Nếu có thể tận dụng được nguồn lực này để hỗ trợ cho DN khởi nghiệp sáng tạo thì sẽ tạo ra một hệ sinh thái bền vững.
Nguồn lực ngân sách nhà nước cho KHCN, nghiên cứu phát triển rất hạn chế, trong khi nguồn lực của DN hiện nay rất lớn. Chúng ta phải khơi thông nguồn lực này để nắn dòng chảy vào cho tài sản trí tuệ, cho mô hình kinh doanh mới, cho tăng trưởng của DN khởi nghiệp sáng tạo. Thực tế, nhiều nước đã thực hiện thành công việc liên kết giữa các tập đoàn và các DN khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn như người đỡ đầu, chắp cánh và thúc đẩy cùng với DN khởi nghiệp sáng tạo.
Vậy còn phía cơ quan Nhà nước cần làm gì, thưa ông?
Ông Phạm Hồng Quất: Vai trò của Nhà nước là tạo ra cơ chế để các bên có thể tương tác được với nhau. Ví dụ, cơ chế về quản lý và sử dụng quỹ phát triển KHCN của DN hiện nay còn rất khó khăn, hạn chế về nội dung chi, mức chi, chỉ chủ yếu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu phát triển của bản thân DN.
Quy định về bảo toàn vốn của DN nhà nước cũng rất khó khăn, trong khi đầu tư những giải pháp về công nghệ cho DN khởi nghiệp sáng tạo đòi hỏi phải dài hạn hơn (có thể 5-7 năm mới kết thúc vòng đời của dự án, hạch toán có khi “3 thành công bù 7 thất bại”), còn nếu cứ tính thanh toán, hạch toán hằng năm, hoặc hạch toán từng dự án để bảo toàn thì không phù hợp với đầu tư vào công nghệ mới hiện nay.
Luật Chuyển giao công nghệ, Nghị định hướng dẫn Luật Chuyển giao công nghệ cho phép sử dụng nguồn quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp vào thương mại hóa công nghệ, đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo, thế nhưng để triển khai những quy định đó bằng những văn bản cụ thể thì còn chưa có.
Do đó, rất cần những chỉ thị, những văn bản của Chính phủ cho phép áp dụng thí điểm ở một vài tập đoàn, sau đó có thể nhân rộng ra và nâng lên thành tầm văn bản cao hơn, tạo hành lang pháp lý để thực hiện chính sách. Như thế, sẽ giải phóng được nguồn lực, một bên là nguồn lực về nhân lực, chất xám, tài sản trí tuệ từ các viện, trường, các nhà khoa học, nhà sáng chế, một bên là nguồn lực về tài chính, về thị trường từ các tập đoàn, các DN lớn.
Hiện 2 nguồn lực này chưa liên kết được với nhau và nếu chúng ta có một cơ chế để tạo ra nền tảng chung thì sẽ tạo ra một “cú hích” cho hệ sinh thái. Như ở Singapore, các tập đoàn, Nhà nước đã hợp tác đưa ra một nền tảng đổi mới sáng tạo mở từ 2 năm nay, rất nhiều tập đoàn của Singapore và các tập đoàn quốc tế ngoài Singapore tham gia, từ đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo từ nguồn nhân lực tại các viện, trường, đồng thời giải quyết bài toán của các tập đoàn.
Muốn triển khai được sáng kiến này, về mặt cơ chế, việc chi nguồn chi của DN phải thông thoáng hơn thì các tập đoàn, DN mới có thể đưa nguồn lực vào nền tảng chung đó hay hỗ trợ cho các vườn ươm của các trường đại học, hỗ trợ các tổ chức thúc đẩy kinh doanh.
Sáng kiến về mặt cơ chế, chính sách này cũng được Chính phủ Hàn Quốc thực hiện rất thành công. Shinhan Bank đã có sáng kiến Shinhan Future’s Lab, chương trình kết nối với các tổ chức vườn ươm, cơ sở ươm tạo, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh, các viện, trường để thu hút nguồn nhân lực, giải quyết vấn đề chung của các tập đoàn, của các DN, chứ không phải chỉ của Shinhan. Và họ đầu tư vào chính những nhóm khởi nghiệp cùng đầu tư với các quỹ đầu tư mạo hiểm và sau đó bán các DN đó đi, như một kênh đầu tư mới về tài chính, chứ không chỉ phục vụ riêng cho các hoạt động của tập đoàn. Đây cũng là hướng đi mới và mở, phạm vi sử dụng đồng tiền của DN càng thông thoáng thì các tập đoàn, DN càng tận dụng được cơ hội.
Hiện nay, các kỳ Techfest, các cuộc thi quốc gia, các chương trình ươm tạo, huấn luyện theo Đề án 844 rất vất vả, tốn kém nhiều công sức của chuyên gia trong và ngoài nước để tuyển chọn những đội tốt nhất từ viện, trường, cơ sở ươm tạo nhưng cuối cùng gọi vốn lại chủ yếu từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài. Vì thế, vô hình trung, khi “hái quả” thì lại là các chủ thể, nhà đầu tư nước ngoài.
Mong rằng trong thời gian tới, các cơ chế, chính sách của chúng ta sẽ kịp thời giải phóng nguồn lực của các DN, đặc biệt là các tập đoàn, DN nhà nước. Cùng là tiền ngân sách không phải nộp thuế cho nhà nước nhưng để lại quỹ cho DN, để lại cho tập đoàn thì phải cho họ sử dụng vào đầu tư phát triển hệ sinh thái chứ không chỉ cho họ hoạt động nghiên cứu phát triển bản thân DN mình.
Cần có những chính sách thí điểm
Nhiều start-up chia sẻ rằng họ phải “xé rào”, tạo ra tiền lệ hay thậm chí là “lách luật” để phát triển hay gọi vốn... Ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
Ông Phạm Hồng Quất: Có thể nói độ mở của chính sách tỉ lệ thuận với rủi ro đem lại nhưng tỉ lệ tương ứng với thúc đẩy cho những mô hình kinh tế mới. Chúng ta đã gặp câu chuyện của Uber, Grab (trong lĩnh vực taxi công nghệ, logistics…) hay như chia sẻ của VNPay trong lĩnh vực fintech.
Thông thường, những công nghệ, mô hình kinh doanh mới đi trước chính sách và đôi khi phải chứng minh được tính ưu việt, khả năng kiểm soát, giảm thiểu rủi ro thì mới được đưa vào chính sách, thậm chí là khung pháp lý.
Các mô hình kinh doanh đi trước và phải chấp nhận những quy định hiện hành chưa cho phép hoặc không nói rõ, gọi là “xé rào”.
Đơn cử như nói về lĩnh vực hết sức tiềm năng hiện nay là fintech, các nước đang cạnh tranh nhau rất quyết liệt, nhiều nhà đầu tư đang tìm kiếm các start-up về fintech. Start-up có giải pháp hay thì họ sẽ phải sang những nước có cơ chế mở hơn để thử nghiệm, gọi vốn, chạy thử mô hình.
Nhưng khi họ đã thành công ở mức độ nhất định và quay trở về Việt Nam thì có thể Việt Nam cũng cần có những chính sách thí điểm để mở dần cho họ ứng dụng các công nghệ mới trong từng lĩnh vực, dịch vụ. Đồng thời, với những giải pháp kiểm soát tốt, làm thí điểm với phạm vi, quy mô phù hợp và thấy hiệu quả thì sau đó nhân rộng.
Như vậy, không những chúng ta thu hút được khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam ở lại Việt Nam mà còn hút được các giải pháp người Việt ở nước ngoài hoặc thậm chí của nước ngoài vào Việt Nam. Tính lợi ích tổng thể của nền kinh tế chắc chắn sẽ có lợi, hội nhập tốt. Điều này cũng khiến các mô hình kinh doanh cũ phải đưa các giải pháp công nghệ mới vào áp dụng, giống như việc các taxi truyền thống cũng ứng dụng các công nghệ mới, phần mềm mới và cùng chung sống trong hệ sinh thái, tệp khách hàng của người đi trước là rất tiềm năng cho người đi sau và giải pháp công nghệ của người đi sau có thể bán cho người đi trước.
Hiện nay, công nghệ phát triển rất nhanh nên nếu chính sách chậm hơn thì về mặt cạnh tranh quốc gia, chúng ta sẽ kém hơn.
Ông có lời khuyên gì với các bạn trẻ đang có ý định khởi nghiệp sáng tạo?
Ông Phạm Hồng Quất: Các bạn cần có niềm tin và niềm tự hào dân tộc. Nếu có những giải pháp tốt, có lợi cho kinh tế, thương mại, hội nhập, cải thiện dịch vụ thì đều đáng trân trọng và những gì tốt nhất, hay nhất thì hãy chuyển về Việt Nam, ứng dụng tại Việt Nam.
Có thể những cơ chế, chính sách của Nhà nước còn chưa cởi mở, chúng ta nên mạnh dạn đề xuất để thay đổi và trong những trường hợp cần môi trường thử nghiệm thuận lợi của nước ngoài thì các bạn cũng nên đề xuất. Có sự hỗ trợ của Chính phủ vẫn tốt hơn tự do đi tìm con đường để phát triển.
Mong rằng việc thu hút nguồn lực phát triển thị trường cho các start-up của Việt Nam có thể thành hiện thực thông qua các tập đoàn, các ngân hàng, các quỹ chung tay cùng các viện, trường, cơ quan nhà Nước để trở thành hệ sinh thái thuận lợi nhất cho khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Hoàng Giang (thực hiện)