Thế nhưng, với âm mưu chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, trong đó phủ nhận thành tựu đổi mới chính là phương cách chúng cho là hiệu quả nhất. Mục đích của chúng là hướng đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển hóa chế độ chính trị - xã hội ở đất nước ta.
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH trên phạm vi cả nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, từng bước xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới chưa được đặt ra một cách đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng CNXH; mặt khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận thức của Đảng. Trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, tình trạng Đảng bao biện làm thay khá nghiêm trọng, dẫn đến hệ thống chính trị bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Tính độc lập, chủ động của Nhà nước bị vi phạm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế - xã hội thiếu năng động. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy một cách thực chất.
Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước XHCN giảm dần và chuyển sang hợp tác, trao đổi theo giá thị trường quốc tế. Các thế lực phản động quốc tế cấu kết với nhau chống phá quyết liệt cách mạng nước ta. Chiến tranh bùng nổ ở hai đầu biên giới. Mỹ tiến hành cuộc bao vây, cấm vận nước ta ngày càng khắc nghiệt. Sau sự kiện Campuchia, nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế đất nước bị giảm sút trên trường quốc tế...
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng CNXH và quản lý kinh tế, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát phi mã (năm 1986 lên 774%), hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống Nhân dân không được cải thiện, thậm chí nhiều mặt còn sa sút hơn... Đất nước dần lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp từng bước tháo gỡ khó khăn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, tháo gỡ các rào cản, làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 31 - 01 - 1981 của Ban Bí thư khóa V về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp... đã tạo ra những bước đột phá nhất định, song vẫn không làm thay đổi được đáng kể tình hình kinh tế - xã hội đất nước. Cuộc cải cách giá - lương - tiền năm 1985 không những không cải thiện được tình hình, mà còn làm cho đời sống của Nhân dân khó khăn hơn.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã được triệu tập1. Đại hội hội khẳng định “Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học”2. Đây là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Thành công của Đại hội đã mở ra một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới.
Đại hội VI của Đảng chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc, có lộ trình và bước đi thích hợp; đổi mới toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp; lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước ta; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn; sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng; xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp sức mạnh của nhân dân và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Trên thực tế, nhiều năm nay, với “hàng núi” sách báo chống Đảng, hàng trăm giọng điệu công kích, bôi nhọ, phủ nhận, với hàng nghìn thủ đoạn đủ loại, trên mọi phương diện, đang tràn ngập mạng internet. Những luận điệu xuyên tạc công cuộc đổi mới, sự công kích Đảng, Nhà nước và đất nước ta từ nhiều phía, với nhiều thủ đoạn, ở nhiều mức độ và nhiều tính chất, cả bên trong lẫn bên ngoài, rất phức tạp.
Về thành tựu công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, các thế lực thù địch, phản động cho rằng: Sau hơn 45 năm thống nhất đất nước, hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là "nước tụt hậu, Nhân dân còn đói nghèo, tham nhũng tràn lan, đạo đức suy đồi, xã hội vô kỷ cương…".
Thực chất là thông qua phủ nhận thành tựu đổi mới, các thế lực thù địch, phản động công kích trực diện vào tính khoa học và cách mạng, những giá trị cốt lõi, then chốt nhất của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng.
Thực tiễn hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh sức sống trường tồn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của các chủ trương, chính sách của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã trãi qua 8 kỳ đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XIII. Đó là quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, đồng thời lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện đường lối đó trong thực tiễn. Nhất quán với quan điểm thực tiễn, quan điểm đổi mới và phát triển, Đảng ta qua các thời kỳ đại hội và các hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ đã nỗ lực cụ thể hóa, bổ sung và điều chỉnh nhiều vấn đề quan trọng từ nhận thức lý luận đến chủ trương, biện pháp để phát triển và hoàn thiện đường lối. Đó cũng chính là quá trình Đảng ta từng bước trưởng thành về tư duy lý luận, nâng cao tầm tư tưởng, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính, có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội với tư cách một Đảng cầm quyền.
Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vận nước có lúc ngàn khó, nhưng thế nước cứ tiến lên. Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; Nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Quy mô kinh tế Việt Nam tăng gấp 12 lần; thu nhập bình quân đầu người/tháng (theo sức mua tương đương - PPP) đạt khoảng 11.040 USD, tăng 8,3 lần xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 143 thế giới (năm 2021); kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng 29,5 lần, đưa Việt Nam trở thành một trong 20 nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới về thương mại; cán cân thương mại duy trì xuất siêu năm thứ 6 liên tiếp, đạt khoảng 4 tỷ USD (năm 2021); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần. Nếu giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Năm 2020 và 2021, mặc dù kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới, năm 2022, GDP đạt 8,02%, mức tăng cao nhất trong 11 năm qua (2011 - 2022). Sau nhiều nỗ lực trong công tác giảm nghèo,Việt Nam đã trở thành một trong những hình mẫu trên thế giới về thành tựu xóa đói, giảm nghèo, là câu chuyện thành công, truyền cảm hứng cho bạn bè năm châu.Tỉ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 (tính theo chuẩn mới). Cùng với những kết quả về phát triển kinh tế và tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu được nâng lên; trang thiết bị, vũ khí hiện đại, vũ khí công nghệ cao được đầu tư nhằm tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước. Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Việt Nam đã ký kết và tham gia 15 hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, uy tín của Đảng, đồng thời là cầu nối thắt chặt tình đoàn kết máu thịt giữa nhân dân với Đảng, củng cố niềm tin, tình cảm của nhân dân vào Đảng, vào chế độ.
Mặt khác, phủ nhận thành tựu đổi mới, các thế lực thù địch, phản động còn âm mưu làm chệch hướng nền kinh tế nước ta, hướng nền kinh tế Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng cho rằng, Nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, kêu gọi chúng ta phải giảm bớt vai trò của doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh hơn nữa việc cổ phần hóa, tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, những mảng kinh tế yết hầu, liên quan đến vận mệnh của Tổ quốc, sự tồn vong của chế độ như năng lượng, viễn thông, quốc phòng - an ninh... chúng ta không thể để cho tư nhân, tư bản thao túng. Thực tế hiện nay, chỉ có các doanh nghiệp nhà nước mới dám đầu tư vào những vùng đặc biệt khó khăn, những ngành kinh tế không nảy sinh lợi nhuận, nhằm phát triển đất nước và bảo đảm an sinh, công bằng xã hội. Vì vậy, chúng ta phải duy trì sức mạnh chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế quốc dân. Đây là việc làm hoàn toàn bình thường mà mọi quốc gia, dù tư bản hay cộng sản đều thực hiện, có chăng chỉ là cách thức thực hiện khác nhau mà thôi.
Về chính trị, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho rằng Việt Nam đổi mới kinh tế chứ không đổi mới chính trị, do vậy mà người dân không phát huy được tiếng nói của mình trên các lĩnh vực. Ý đồ của chúng là muốn nói đến vấn đề dân chủ, đến việc thực hiện quan điểm "dân là gốc", người dân không phải là trung tâm trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng ta.
Như chúng ta đã biết, từ khi được thành lập cho đến nay, Đảng luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Điều đó đã được thể hiện sinh động trong suốt quá trình phát triển đi lên của cách mạng Việt Nam và luôn là mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới.
Tại Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị, nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân…”
Vì lợi ích của Nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc; bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đánh giá quá trình đổi mới, Đảng ta một lần nữa chỉ rõ, đổi mới phải dựa vào Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.
Trong các nhiệm kỳ đại hội, nhiều nghị quyết chuyên đề đã được ban hành, thể hiện Đảng và Nhà nước ta đã tập trung nỗ lực xây dựng xã hội mới, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, phục vụ lợi ích của Nhân dân.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, với mục tiêu tổng quát, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 10/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Hệ thống pháp luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Các đối tượng thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Là một trong những quốc gia phải gánh chịu thiệt hại nặng nề bởi các thảm họa thiên nhiên, những năm qua, công tác chỉ đạo điều hành, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đảm bảo an toàn cho người dân.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XI, đã thông qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Phương châm lấy bảo vệ sức khỏe Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng. Mới đây, trong công tác ứng phó với bão số 4 cho thấy, sự chủ động và quyết liệt chỉ đạo từ sớm, từ xa của Chính phủ và các bộ, ngành từ Trung ương đến địa phương đã làm giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản. Toàn hệ thống chính trị đã vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao, bằng mọi biện pháp phải bảo đảm an toàn cho người dân, có nơi ăn chốn ở, ổn định đời sống và sản xuất, góp phần nhân lên lòng tin yêu của Nhân dân với Đảng.
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế là nòng cốt.
Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Mục tiêu là nâng cao sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam; xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế; phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe, phấn đấu đến năm 2025, tuổi thọ trung bình khoảng 74,5 tuổi, số năm sống khỏe đạt tối thiểu 67 năm…
Có thể thấy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân. Để các chủ trương đi vào thực tiễn cuộc sống thì lợi ích của nhân dân phải được ưu tiên trước hết và trên hết trong chu trình hoạch định và triển khai chính sách. Mọi người dân đều được hưởng trực tiếp, công bằng các thành tựu phát triển. Điều đó thể hiện rõ nét qua kết quả thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng từng nhiệm kỳ.
Khơi dậy sức mạnh, tiềm năng to lớn trong Nhân dân
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong mọi đường lối, chính sách; chú trọng việc khơi dậy sức mạnh, tiềm năng to lớn trong Nhân dân, quy tụ được lòng dân chung sức đồng lòng với Đảng, Nhà nước, thực hiện khát vọng phát triển đất nước thịnh vượng và hạnh phúc.
Ngay từ khi xây dựng các dự thảo văn kiện Đại hội, các tầng lớp nhân dân đã tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến thông qua đại hội đảng bộ các cấp, qua các đại biểu Quốc hội, các thành viên, hội viên của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Nhân dân. Đảng luôn trân trọng, lắng nghe, tiếp thu các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các đồng chí lão thành cách mạng, các nhân sỹ, trí thức, đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước, đồng bào ta định cư ở nước ngoài… để bổ sung, hoàn chỉnh, làm cho các văn kiện trình Đại hội thật sự là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn. Và gần đây, các tầng lớp nhân dân tham gia góp ý kiến vào Dự thảo Luật Đất đai năm 2013 (hơn 11 triệu người), thể hiện chính kiến của mình mang lại hiệu quả thiết thực cho quá trình hoàn thiện Luật Đất đai sửa đổi.
Không chỉ tham gia xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là chủ thể thực hiện và trực tiếp thụ hưởng các thành quả phát triển, Nhân dân cũng chính là người giám sát việc thực thi, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống. Đúng như tinh thần Đại hội XIII đã bổ sung nội dung “Dân giám sát, dân thụ hưởng” để hoàn chỉnh phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.” Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của Nhân dân trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, nhiệm kỳ 2021-2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân”.
Điều này thể hiện rõ nét trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19. Đảng, Nhà nước ta đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách hướng tới người dân, bảo vệ quyền con người, luôn quan tâm, đặt sinh mạng, sức khỏe và cuộc sống của người dân lên hàng đầu. Ngày 1/7/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch, thể hiện tính nhân văn, với phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau.”
Trước đại dịch COVID-19 diễn biến khó lường, Việt Nam đã nỗ lực triển khai quyết liệt mục tiêu tiêm chủng miễn phí toàn dân, với tinh thần "chống dịch như chống giặc," đặt sức khỏe, tính mạng của Nhân dân lên trên hết, trước hết, kịp thời đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến gần dân nhất, sát dân nhất.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo không những đã tạo ra những tiền đề vững chắc, động lực mới mà còn thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Phát huy mạnh mẽ khối đại đoàn kết dân tộc, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm nỗ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đề ra. Đó cũng là vũ khí sắc bén đập tan luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và các phần tử bất mãn, khẳng định ý nghĩa lịch sử của thành tựu đổi mới làm thay đổi diện mạo đất nước, tạo thế và lực mới làm tăng sức mạnh quốc gia, nâng vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế./. Văn Anh
1. Sau những ngày họp nội bộ (từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986), từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, Đại hội họp công khai. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng, trong số đó có 925 đại biểu thuộc đảng bộ của 40 tỉnh, thành phố, đặc khu, 172 đại biểu thuộc các đảng bộ trực thuộc Trung ương, 153 đại biểu nữ, 115 đại biểu thuộc các dân tộc thiểu số, 50 đại biểu là anh hùng lực lượng vũ trang và anh hùng lao động, 72 đại biểu là công nhân trực tiếp sản xuất... Đến dự Đại hội có 35 đoàn đại biểu quốc tế (Nguồn: Tài liệu chuyên đề của Ban Tuyên giáo Trung ương số 12, năm 2021).
2. Văn kiện Đại hội VI của Đảng.