Khái quát quá tình hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn 

Đồng chí Lê Duẩn (tên khai sinh là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 07-4-1907, tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Từ nhỏ đồng chí theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong. Xuất thân từ một gia đình lao động, có truyền thống yêu nước và từ tuổi thiếu niên đồng chí đã chứng kiến đời sống đói rách cực khổ của nhân dân, trước sự đàn áp, bất công của chế độ thực dân nửa phong kiến, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng và tham gia các hoạt động yêu nước, như: Phong trào đấu tranh đòi thực dân Pháp ân xá nhà yêu nước Phan Bội Châu (1925), tham gia Nhóm thanh niên ái quốc, Hội Ái Hữu ở Đà Nẵng (1926).

Đồng chí Lê Duẩn thuộc lớp người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng chí tham gia Hội Thanh niên Cách mạng năm 1928 và năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.

          Sau Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 - 1930, đồng chí được phân công làm Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ; cơ quan đặt trụ sở hoạt động ở Hải Phòng. Từ đó đồng chí Lê Duẩn rời Sở Hỏa xa Đông Dương và bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Đồng chí được phân công phổ biến Luận cương chính trị cho các địa phương, biên soạn tài liệu, phát hành báo chí, truyền đơn và vận động phong trào quần chúng đấu tranh cách mạng. Tháng 4 - 1931, Trung ương Đảng và xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương phát động phong trào quần chúng đấu tranh mạnh mẽ ở Hà Nội, Hải Phòng dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 - 5 - 1931. Đồng chí Lê Duẩn chịu trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức cuộc đấu tranh tại các xí nghiệp sản xuất công nghiệp và các khu lao động ở Hải Phòng.  Cuối tháng 4 - 1931, đồng chí bị thực dân pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù cầm cố và lần lượt đưa đi giam cầm, đày ải qua các nhà tù ở Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo. “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, tại các nhà tù này, đồng chí cùng nhiều đảng viên cộng sản lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù và tổ chức việc học tập, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho anh em trong tù. Sự tàn bạo của kẻ thù đã không làm đồng chí khuất phục, trái lại càng tôi luyện thêm ý chí, rèn đúc thêm trí tuệ và phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng, làm cho đồng chí trở thành người lãnh đạo kiên cường, được nhân dân yêu mến, bạn bè, đồng chí cảm phục, noi theo.

          Năm 1936, cuộc đấu tranh của nhân dân ta có bước phát triển mới và với thắng lợi của Mặt trận nhân dân ở Pháp, chính quyền thực dân ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho nhiều chiến sĩ cách mạng Việt Nam, trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Tháng 10 - 1936, đồng chí Lê Duẩn từ Côn Đảo về Quảng Trị, ra sức hoạt động cách mạng ở các tỉnh miền Trung. Với tư duy năng động, nhạy bén, cùng với lòng nhiệt tình và trình độ lý luận sắc bén, đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng vào tình hình cụ thể, nhanh chóng tập hợp được cán bộ cốt cán làm hạt nhân lãnh đạo phong trào, chắp nối được cơ sở đảng, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân chủ để đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh. Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều tổ chức cơ sở đảng đã được khôi phục. Năm 1937, đồng chí Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ và từ đó đến năm 1939, hoạt động tích cực của đồng chí góp phần quan trọng dẫn đến cao trào đấu tranh sôi nổi trong cả nước.

          Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và cuối năm đó đã cùng đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá I), quyết định thành lập Mặt trận Phản đế Đông Dương thay Mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới.

          Năm 1940, đồng chí lại bị địch bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo lần thứ hai cho đến khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 17- 9 - 1945, đồng chí Lê Duẩn cùng với chiến sĩ cộng sản khác  được Đảng và Chính phủ đón về đất liền chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới. Đồng chí Lê Duẩn được phân công công tác tại Sài Gòn. Ngày 25-10-1945 Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ đề cử đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy lâm thời.

           Năm 1946, ra Hà Nội, đồng chí Lê Duẩn làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuối năm đó, đồng chí được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Từ năm 1946 đến năm 1954, với cương vị là Bí thư Xứ ủy rồi Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, đồng chí đã lãnh đạo Đảng bộ Miền Nam tổ chức cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và tiến hành cải cách ruộng đất trong vùng giải phóng, giải quyết tốt vấn đề nông dân, củng cố vững chắc liên minh công nông.

          Từ năm 1954 đến năm 1957, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn được Trung ương phân công ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng. Trong những năm tháng vô cùng khó khăn này, đồng chí đã lăn lộn nhiều vùng nông thôn từ vùng hẻo lánh miền Tây, miền Trung Nam Bộ đến trung tâm thành phố lớn Sài Gòn, Đà Lạt để củng cố các cơ sở cách mạng, chuẩn bị cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Gắn bó với chiến trường Nam Bộ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng chí Lê Duẩn đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xương máu, làm tiền đề để khởi thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”.

          Năm 1957, Trung ương cử đồng chí lãnh đạo chung của Đảng bên cạnh Hồ Chủ tịch. Nhận trọng trách mới, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị chuẩn bị xây dựng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng khoá II, mở ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng miền Nam. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị, trong đó nêu ra hai chiến lược cách mạng: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, kết hợp cách mạng hai miền nhằm thực hiện mục tiêu chung hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Tại Đại hội này, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất.

          Suốt mười lăm năm trên cương vị này, trong hoàn cảnh đất nước trải qua thử thách cực kỳ nghiêm trọng và tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng cả nước ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV (năm 1976) và lần thứ V (1982), đồng chí Lê Duẩn được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư; từ năm 1978 đồng chí là Bí thư Quân uỷ Trung ương.

Tại Đại hội lần thứ IV, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí trình bày đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và vạch ra đường lối chung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Tại Đại hội lần thứ V, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí trình bày Báo cáo chính trị, vạch rõ hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đồng thời định ra chiến lược phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Hơn mười năm từ khi đất nước thống nhất, với cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí đã cùng với Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra, thu được những thành tựu quan trọng trong công cuộc khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, văn hoá và tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Là học trò lỗi lạc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn là một nhà lý luận, nhà tư tưởng, một người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và của nhân dân ta, với những đức tính quý báu: giàu lòng nhân ái, trung thực và giản dị. Là một người thuộc lớp cận vệ đầu tiên của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vẻ vang của Đảng và dân tộc. Gần sáu mươi năm hoạt động cách mạng liên tục, phong phú, sôi nổi, trong đó có hai mươi sáu năm giữ cương vị Bí thư thứ nhất và Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Lê Duẩn là một tấm gương mẫu mực về lòng tận tụy, trung thành, hy sinh, xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tư duy chiến lược cách mạng, sự sáng suốt về trí tuệ của đồng chí Lê Duẩn đã góp phần quan trọng cho Đảng vượt qua những khó khăn, thách thức trong những bước ngoặt lịch sử và những tình huống phức tạp.

Đồng chí Lê Duẩn là đại biểu Quốc hội từ khoá II đến khoá VII.

Là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, nhà lý luận sắc bén, một tư duy sáng tạo lớn, bằng thực tiễn, trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Duẩn đã viết nhiều tác phẩm, bài viết có giá trị thể hiện chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng thích hợp với từng hoàn cảnh, với từng thời gian; tư duy chiến lược về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng và phát triển văn hóa, phát triển con người, công tác đối ngoại của Đảng, tiêu biểu như tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản”, “Cách mạng dân chủ mới”, “Đề cương cách mạng miền Nam”, “Thư vào Nam”,  “Về chiến tranh nhân dân Việt Nam”, “Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới”, “Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta”...

Trong hoạt động quốc tế đồng chí đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố tình đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia, củng cố và phát triển sự hợp tác toàn diện, tình hữu nghị anh em giữa Việt Nam - Liên Xô và các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; kiên định đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào độc lập dân tộc. Đồng chí Lê Duẩn là tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường, người chiến sĩ quốc tế trong sáng được kính trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và trên thế giới. Các nước anh em Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia, Ba Lan, Bun-ga-ry, Cu Ba, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hung-ga-ry, Mông Cổ, Tiệp Khắc đã tặng đồng chí nhiều Huân chương cao quý. Ủy ban giải thưởng quốc tế Lê-nin tặng đồng chí giải thưởng “Vì sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc”.

Đồng chí được Đảng và Nhà nước ta tặng Huân chương cao quý nhất - Huân chương Sao Vàng. Đinh Tưởng-Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ

1905 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.
Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 694
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 694
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87002308