Kết nối ý Đảng - lòng dân
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại. Có được những thắng lợi ấy, do nhiều nguyên nhân, nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, từ bên trong và bên ngoài mang lại. Trong đó, hai nhân tố quan trọng nhất, là cội nguồn, then thốt và cũng là trực tiếp nhất quyết định mọi thắng lợi của cách mạng đó là “ý Đảng” và “lòng dân”. “Ý Đảng” là sự lãnh đạo của Đảng, được biểu hiện tập trung ở đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng; và quan trọng nhất là sự lãnh đạo ấy phải đúng đắn, phù hợp, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phải thuận với lòng dân, thuận với chiều hướng phát triển của lịch sử, của thời đại, của dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ chứ không phải là sự lãnh đạo theo ý chí chủ quan của Đảng. “Lòng dân” là sự cố kết tâm trí, lực lượng toàn dân tạo nên sức mạnh của cách mạng; "lòng dân" được thể hiện ở niềm tin tuyệt đối của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, trung thành đi theo Đảng làm cách mạng, chấp hành đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; “lòng dân” chỉ được củng cố vững chắc khi thấy đường lối của Đảng đem lại lợi ích chính đáng cho mình. Nội dung cốt lõi của sự thống nhất đó được biểu hiện ở chỗ: Đảng đề ra chủ trương, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp Nhân dân, được Nhân dân đồng tình hưởng ứng. Nhìn lại lịch sử, nếu như không có nhân dân, cho dù Đảng có tài tình đến bao nhiêu cũng không thể tự mình tạo ra những thành quả lớn lao ấy. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Nhân dân ta luôn một lòng trung thành với Đảng, đi theo con đường của Đảng, ủng hộ, chở che, bao bọc để Đảng hoàn thành sứ mệnh của mình trước Nhân dân.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn sinh động “ý Đảng, lòng dân” thể hiện trong quá trình lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng rút ra bài học: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Đảng lấy sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và cán bộ, đảng viên”; “Niềm tin của nhân dân là thước đo cho sự vững mạnh của Đảng”. Cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, lòng dân được củng cố là điểm tựa vững chắc để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước cường thịnh, hạnh phúc.
Tăng cường lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc
Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của các dân tộc trên thế giới không riêng gì Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước, tự hào dân tộc không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta…”, được tiếp nối từ đời này sang đời khác, từ thế hệ đi trước đến thế hệ sau.
Ngày nay, trong thời bình, quá trình hội nhập kinh tế, văn hóa, chính trị thì tinh thần yêu nước được thể hiện ở nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Mỗi người đều có một lý tưởng sống riêng, yêu nước trước hết là làm tròn nghĩa vụ của riêng bản thân, tôn trọng văn hóa, ngôn ngữ dân tộc. Mỗi người cũng lựa chọn riêng cho mình một cách riêng để thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc: có người đi nghĩa vụ canh giữ biên cương, có người lựa chọn cống hiến về tri thức, có người lại chọn cống hiến trên lĩnh vực thể thao… tất cả đều mong muốn làm rạng danh quê hương, đất nước.
Tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc Chính là Sức mạnh nội sinh xây dựng đất nước hùng cường. Chính vì thế, trong nhiều văn kiện, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước là một nhân tố quan trọng tạo thành động lực phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”. Nội dung này được Đảng ta nhắc đến nhiều lần, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước trong phát huy giá trị của chủ nghĩa yêu nước, gắn với sức mạnh con người Việt Nam thời kỳ mới. Đặc biệt, trong giai đoạn đất nước hội nhập sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc phải trở thành nguồn lực, một sức mạnh quốc gia, có thể thành lợi thế so sánh trên trường quốc tế để xây dựng đất nước hùng cường.
Nhân lên khát vọng phát triển
Nói đến khát vọng của mỗi con người là nói đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn sức lực, trí tuệ để đạt cho được mục tiêu đã đặt ra. Từ đó có thể khái quát, khát vọng phát triển đất nước là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người trong cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn, sống động và sức mạnh vô song. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai.
Trên thế giới, nhiều quốc gia phát triển hùng mạnh đều bắt nguồn chính từ những khát vọng vươn lên trở thành một dân tộc hùng cường. Các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, mặc dù khác nhau về diện tích, quy mô dân số, vị trí địa lý, văn hóa, tài nguyên…, nhưng đều có một điểm chung đó là sự trỗi dậy, sự vươn lên của dân tộc, của người dân với ý chí, khát vọng chiến thắng nghịch cảnh, không bằng lòng chấp nhận số phận; là sự đồng lòng, quyết tâm của chính phủ và người dân ở các quốc gia này… Đó chính là nguyên nhân tạo nên những kỳ tích mang tên: “Thần kỳ Nhật Bản”, “Kỳ tích sông Hàn”, hay “Câu chuyện thần kỳ” mang tên Singapore.
Đối với Việt Nam, một dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh hùng, khát vọng phát triển đất nước là khát vọng cháy bỏng, thường trực trong tâm thức của các thế hệ người Việt Nam từ xưa đến nay. Đó thật sự là một sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt tiến trình hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Trong lịch sử, Việt Nam chiến thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập dân tộc, sáng tạo nên nền văn minh Đại Việt rực rỡ không phải chủ yếu bằng tiềm năng quân sự, bằng sức mạnh vật chất, mà trước hết và chủ yếu bằng sức mạnh quật khởi vĩ đại bắt nguồn từ khát vọng về chủ quyền quốc gia với “Sông núi nước Nam vua Nam ở” của Lý Thường Kiệt và khát vọng về một đất nước phú cường đời đời bền vững với “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” dưới thời vua Trần Nhân Tông...
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khơi dậy, nuôi dưỡng, truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mà còn là người đề ra các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược phù hợp trong từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển của đất nước. Chính điều này đã góp phần tạo nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 94 năm qua, từ khi Đảng ra đời vào ngày 3-2-1930. Ở thời khắc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, nước Việt Nam sẽ hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản, bảo đảm tốt đẹp trên các phương diện: xã hội, chính trị, kinh tế và liên kết quốc tế. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vừa thành công, đất nước trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Người đã nêu khát vọng đưa dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu bằng nhiệm vụ “trồng người” trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên sau khi đất nước giành được độc lập, tháng 9-1945. Giữa ác liệt, mất mát, đau thương do cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Trong Di chúc, Người đã viết “về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”.
Tiếp nối khát vọng phát triển đất nước hùng cường, giàu mạnh của cha ông, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau khi đất nước thống nhất năm 1975, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, với khát vọng chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, nhân dân đồng lòng tin theo Đảng tiến hành sự nghiệp đổi mới. Trong gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao… Từ một quốc gia kém phát triển, ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã từng bước vươn lên khẳng định được vị thế, vai trò trên trường quốc tế. Những thành tựu này được bắt nguồn từ khát vọng cháy bỏng về chủ quyền quốc gia, dân tộc, khát vọng vượt qua nghèo nàn, lạc hậu hướng tới xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Lịch sử phát triển của các nước và Việt Nam đều cho thấy rõ vai trò quan trọng của việc khơi dậy và phát huy khát vọng phát triển đất nước trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh nội sinh giúp các quốc gia, dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách để phát triển. Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” Như vậy, khát vọng phát triển đất nước không những là một trong những động lực quan trọng, mà Đảng còn chủ trương khơi dậy khát vọng phát triển đất nước ở một tầm cao mới: phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Trong suốt 94 năm qua (1/8/1930 - 1/8/2024), công tác tuyên giáo đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, bằng các phương thức tổ chức triển khai khác nhau đã hiện thực hóa các chủ trương, đường lối đó của Đảng một cách hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của dân tộc. Dù nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng có khác nhau, nhưng kết nối ý Đảng- lòng dân, bồi dưỡng, hun đúc lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, nhân lên khát vọng phát triển được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt; cổ vũ niềm tin, nâng cao nhận thức, làm bừng lên sức mạnh nội sinh tạo thành động lực to lớn nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, ngành Tuyên giáo bám sát Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, về phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ. Ngoài việc tiếp tục đổi mới về nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa và yêu cầu công tác tư tưởng trong thời kỳ cách mạng mới. Trong đó, tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả; đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo tinh thần khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại, bảo đảm tính nền nếp, nhất quán và chất lượng hiệu quả, chú trọng duy trì kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
Lớp lớp thế hệ cán bộ ngành tuyên giáo được Đảng quan tâm chăm lo, đào tạo, giáo dục, rèn luyện không chỉ lớn mạnh về số lượng mà còn dày dạn kinh nghiệm thực tiễn, được kinh qua thử thách, khó khăn, với những phương tiện và điều kiện hoạt động ngày càng hiệu quả, tác động đến tư tưởng, trí tuệ, tình cảm của mỗi con người một cách tinh tế, nhạy bén. Từ việc đúc kết thực tiễn, công tác tuyên giáo đã cung cấp những luận cứ khoa học, góp phần hình thành hệ thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục, tuyên truyền có hiệu quả Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước; tham mưu xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; đồng thời tích cực đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, nhất là trong thời kỳ bùng nổ thông tin hiện nay, góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội./.
Phan Văn Lãn - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị
---------------------
1. Căn cứ vào những tài liệu và sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (Khoá VIII) quyết định lấy ngày 1/8 hằng năm làm Ngày Truyền thống công tác tư tưởng - văn hoá của Đảng. Năm 2007, sau khi Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương hợp nhất thành Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá X) quyết định lấy ngày 1/8 hằng năm làm Ngày truyền thống công tác Tuyên giáo của Đảng.(Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo điện tử, số ra ngày 01/8/2016).