Chá vá chân nâu là loài thú được xác định nhạy cảm với biến đổi khí hậu, vì vậy cần kết hợp với bảo tồn đa dạng sinh học vùng Trung Trường Sơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Ngoài hệ sinh thái rừng trong các khu bảo tồn, việc duy trì chất lượng rừng ở các khu vực nằm trên hành lang đa dạng sinh học nối khu bảo tồn Đakrông và khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa cũng cần được chú ý và ưu tiên thực hiện. Đây sẽ là không gian phát tán của các loài thực vật, không gian di chuyển của một số loài động vật trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Các hoạt động của Kế hoạch bảo tồn loài Chà vá chân nâu được xây dựng căn cứ vào các cơ sở pháp lý, tình trạng và phân bố Chà vá chân nâu trên toàn tỉnh, các mối đe dọa tới Chà vá chân nâu và hạn chế của các khu bảo tồn trong quản lý và bảo tồn tài nguyên của khu vực. Ngoài ra, các chương trình kế hoạch hành động của các khu bảo tồn đã xây dựng được ưu tiên và không lặp lại trong xây dựng Kế hoạch này. Các nội dung chính của Kế hoạch được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên bao gồm: Điều tra kích thước quần thể và phân bố của loài Chà vá chân nâu trên toàn tỉnh trong 02 năm 2019 và 2020; Lồng ghép hoạt động giám sát tình trạng và phân bố Chà vá chân nâu trong công tác quản lý các khu bảo tồn trên địa bàn tỉnh: Giai đoạn 2021 - 2025; Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật để bảo vệ loài Chà vá chân nâu và môi trường sống của chúng: Giai đoạn 2019 - 2025; Nâng cao nhận thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về bảo tồn Chà vá chân nâu thông qua các chương trình giáo dục bảo tồn: Giai đoạn 2019 - 2025; Nâng cao năng lực bảo tồn loài Chà vá chân nâu cho các khu bảo tồn: Giai đoạn 2020 - 2025.
Để thực hiện tốt các hoạt động trong Kế hoạch, UBND tỉnh chủ trương lồng ghép, đưa các nội dung trong Kế hoạch vào các quy hoạch và cơ chế, chính sách của tỉnh. Bên cạnh đó, các hoạt động về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học được xem là hoạt động ưu tiên trong việc kêu gọi đầu tư, tài trợ từ các tổ chức trong nước và quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà khoa học, tổ chức trong nước và quốc tế nghiên cứu và hợp tác triển khai các chương trình, dự án trong Kế hoạch.
Các khu bảo tồn tăng cường hệ thống thông tin, nâng cao năng lực, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng, thường xuyên cập nhật tình hình bảo vệ rừng. Các khu bảo tồn xây dựng hệ thống cảnh báo cháy rừng, hệ thống thông tin liên lạc chỉ huy phòng chống cháy rừng. Sau khi các lớp tập huấn kỹ năng điều tra và giám sát Chà vá chân nâu và quản lý bảo tồn đa dạng sinh học kết thúc, các cán bộ tham gia tập huấn, tổ chức nhóm chia sẻ kỹ năng và tổ chức thực hiện. Hàng năm, các khu bảo tồn cần có các lớp tập huấn tương tự nhằm bổ sung thông tin và phát triển nguồn nhân lực cho tất cả các cán bộ khu bảo tồn, đặc biệt là các cán bộ trẻ chưa được tham gia các lớp tập huấn. Thông qua các lớp thăm quan, học tập về mô hình cứu hộ Chà vá chân nâu, các cán bộ tham gia khóa học hoàn thiện kỹ năng tiếp nhận, sơ cứu và xử lý bước đầu trong việc cứu hộ Chà vá chân nâu. Các khu bảo tồn xây dựng hệ thống chuồng trại tạm thời để kịp thời cứu chữa các cá thể Chà vá chân nâu bị thương. Các khu bảo tồn thiết lập hệ thống thông tin liên lạc thường xuyên với các Trung tâm cứu hộ để chuyển giao các cá thể thu được từ các vụ buôn bán trái phép. Ngoài ra, cần khuyến khích cán bộ của các khu bảo tồn tham gia các chương trình đào tạo đại học và sau đại học liên quan tới bảo vệ tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học. Trong mỗi khu bảo tồn, cần có cán bộ nghiên cứu chuyên sâu về nhóm Linh trưởng nói chung và Chà vá chân nâu nói riêng.
Để hoạt động tuyên truyền bảo tồn loài Chà vá chân nâu có hiệu quả và tránh lãng phí, Ban quản lý các khu bảo tồn tổ chức họp thôn tại các khu vực có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống có phong tục săn bắn. Ngoài những tờ rơi, tranh treo tường, áo tuyên tuyền, các cán bộ tuyên truyền cần hướng dẫn người dân tác hại của săn bắn trái phép Chà vá chân nâu và các loài quý hiếm khác thuộc danh mục bảo vệ của Việt Nam. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại khóa trong các trường học cũng cần được hỗ trợ nguồn kinh phí để trở thành các hoạt động thường niên hướng đến giáo dục bảo tồn từ các thế hệ trẻ. Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật cần bổ sung các kỹ năng tiếp cận xã hội cho cán bộ khu bảo tồn nhằm cùng với chính quyền động viên người dân địa phương tham gia công tác bảo tồn cũng như củng cố và xây dựng mối quan hệ với các cơ quan, đoàn thể trong vùng để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm quản lý, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, các tổ chức phi Chính phủ. Lê Trang (tổng hợp)