Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả  tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) và quản lý nợ công nhằm đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới. Ngay sau khi Nghị quyết Đại hội Đảng XII được ban hành, căn cứ vào tình hình thực tế, Bộ Tài chính đã nghiên cứu và báo cáo Ban Cán sự Đảng Chính phủ, trình Bộ Chính trị ban hành NQ số 07-NQ/TƯ về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

Bộ Tài chính đã xác định rõ mục tiêu cơ cấu lại NSNN, nợ công dựa trên bốn thành phần quan trọng, gồm: Cơ cấu lại thu ngân sách theo hướng tăng thu nội địa để bù đắp sự suy giảm thu cân đối xuất nhập khẩu, thu dầu thô; cơ cấu lại chi ngân sách có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các ưu tiên trung dài hạn của nền kinh tế, giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, tăng hợp lý tỷ trọng chi đầu tư;  giảm bội chi ngân sách và cơ cấu lại nợ công, giảm rủi ro kỳ hạn, rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất, kiểm soát nợ công trong giới hạn quy định và đặc biệt là xây dựng dựng hệ thống quy tắc quy định về KLTK cũng như việc chấp hành các quy định này.

 Giữ nghiêm kỷ luật tài khóa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo một nền tài chính quốc gia an toàn (Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: M.P)

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) quy định, KLTK bao gồm: kỷ luật về nợ công, kỷ luật về cán cân NSNN, kỷ luật về chi tiêu ngân sách và kỷ luật về thu ngân sách. Ở Việt Nam, KLTK cũng được xây dựng theo bốn nhóm này. Việc thực hiện các chỉ tiêu thu chi NS và cán cân NS có ảnh hưởng trực tiếp đến thâm hụt ngân sách và tình hình nợ công của quốc gia. KLTK được quy định rõ trong Luật NSNN và cụ thể hóa trong các kế hoạch triển khai nhiệm vụ hàng năm của ngành tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong đảm bảo cơ cấu ngân sách, hiện nhiều chỉ tiêu tài khóa như thu chi ngân sách, cân đối ngân sách... vẫn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro.

Theo Vụ phó NSNN (Bộ Tài chính) Nguyễn Minh Tân, giữ nghiêm kỷ luật thu ngân sách có vai trò hết sức quan trọng bởi nỗ lực phấn đấu thu đúng, thu đủ, thu kịp thời về ngân sách mới có nguồn đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán. Cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam đang ngày càng vững chắc hơn, phù hợp sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hội nhập. Thực tế, giai đoạn 2011 - 2015, mặc dù thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo các cam kết hội nhập, nhưng thu ngân sách của Việt Nam vẫn có nhiều chuyển biến quan trọng, với việc tăng cường quản lý thu, đẩy mạnh chống thất thu, chống chuyển giá và xử lý nợ đọng thuế. Sang giai đoạn 2016-2017, thu NSNN các năm bình quân đạt trên 22% GDP. Năm 2018, thu cân đối NSNN ước đạt 1.422,7 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8% so dự toán. Riêng thuế, phí là 21,1% GDP (mục tiêu giai đoạn 2016-2020 không quá 22-23% GDP).

Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, kỷ luật thu ngân sách vẫn còn tình trạng nhiều địa phương lập, giao dự toán chưa sát thực tế; cơ cấu nguồn thu chưa thực sự bền vững và còn phụ thuộc vào các khoản thu không tái tạo như thu từ quyền chuyển giao sử dụng đất, thu từ thoái vốn nhà nước, thu từ tài nguyên. Cụ thể, theo ông Lê Thanh Vân, Thường trực Ủy ban Tài chính -  Ngân sách của Quốc hội, vẫn còn tình trạng kê khai thiếu thuế phải nộp, trốn, lậu thuế, nợ đọng thuế lớn chưa được khắc phục triệt để; còn có khoản thu không đúng đối tượng hoặc không nộp kịp thời vào ngân sách...

Mặt khác, nói đến kỷ luật thu không thể không nhắc đến vấn đề nợ thuế, bởi giữ nghiêm kỷ luật thu sẽ kiểm soát được nợ thuế. Với số nợ thuế hiện nay, nếu tính theo tỷ trọng số nợ thuế trên tổng thu nội địa, thì có xu hướng giảm. Tỷ lệ nợ thuế hiện nay là khoảng 4,4% tổng thu nội địa, là ngưỡng chấp nhận được theo thông lệ quốc tế (thấp hơn 5%). Song, nợ đọng thuế  đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt.

Chia sẻ về kỷ luật chi NSNN, Vụ trưởng NSNN (Bộ Tài chính) Võ Thành Hưng thừa nhận, vẫn còn những bất cập nhất định như tình trạng phê duyệt các chương trình, dự án khi chưa cân đối được nguồn; phân bổ dàn trải, giải ngân không đạt kế hoạch, số chuyển nguồn lớn và kéo dài..., đội chi phí lên cao; việc tách bạch chi đầu tư với chi thường xuyên khó bảo đảm các định mức kinh tế, kỹ thuật, giảm hiệu quả, tuổi thọ của công trình, dự án đầu tư; hiệu quả đầu tư công thấp. Bên cạnh đó, việc xây dựng chấp hành dự toán hàng năm còn chưa bám sát mục tiêu, đảm bảo nội dung, đối tượng và lĩnh vực chi theo quy định. Mặc dù, tỷ trọng chi thường xuyên đã giảm xuống 63% (mục tiêu là dưới 64%), tăng tỷ trọng chi đầu tư thực hiện lên 26-27% (mục tiêu là 25-26%); trong khi vẫn điều chỉnh tiền lương bình quân 7%/năm, cùng với triển khai chính sách nghèo đa chiều, an sinh xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng... Việc cơ cấu lại chi giữa chi thường xuyên - chi đầu tư, giữa các lĩnh vực chi và trong từng lĩnh vực chi, giữa chi cho con người và chi cho các hoạt động khác còn khó khăn do chi thường xuyên lớn chủ yếu là chi con người (khoảng 60-70%) nên việc điều chỉnh, cơ cấu phụ thuộc nhiều vào kết quả thực hiện tinh giản biên chế và đổi mới khu vực sự nghiệp công.

Nợ công của Việt Nam  tuy vẫn trong giới hạn bảo đảm, nhưng vẫn gây áp lực cho việc bố trí nguồn trả nợ trong thời gian tới (Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: M.P)

Thực tế, giai đoạn khoảng 10 năm gần đây, Việt Nam luôn duy trì quy mô chi tiêu công ở mức cao, trong khi nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp, nên thâm hụt NSNN thường xuyên ở mức cao. Thực trạng này ảnh hưởng tới tăng trưởng dài hạn, ổn định kinh tế vĩ mô và khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế. Cụ thể, bội chi NSNN quân năm 2011 – 2015 là 5,69% GDP, năm 2016 đã tăng lên 5,52% sang năm 2017 giảm xuống còn 3,48% và 2018 lại tăng mức dưới 3,6% GDP. Tuy về lý thuyết bội chi NSNN không thực sự đáng lo ngại nếu nguồn vay nợ được sử dụng một cách hiệu quả và tạo ra những động lực mới cho nền kinh tế, qua đó tạo ra dư địa cho tăng thu NSNN để có nguồn trả nợ. Nhưng có một thời gian, bội chi quá cao đã dẫn đến gia tăng liên tục nợ công.

Theo Bộ Tài chính, nợ công tính đến ngày 31/12/2018 của Việt Nam ở mức 58,4% GDP, tuy bảo đảm trong giới hạn, nhưng vẫn gây ra những áp lực trong việc bố trí nguồn trả nợ trong thời gian tới. Đặc biệt, mức độ ưu đãi các khoản vay dành cho Việt Nam sẽ giảm do Việt Nam đã bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình, chi phí vay vốn vì thế sẽ cao hơn.

Ông Nguyễn Minh Tân cho rằng, KLTK đang được thực hiện ngày càng chặt chẽ, nhưng vẫn còn những tồn tại như hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, một số chính sách chưa theo kịp thực tiễn dẫn đến hiện tượng “lách luật” vi phạm kỷ luật tài chính, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa theo kịp với tình hình mới nên vi phạm lặp đi, lặp lại. Trên thực tế vẫn còn tình trạng chi sai, chi vượt định mức. Việc này xuất phát từ chủ trương giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị, một mặt tạo thuận lợi nhưng mặt khác việc thanh, kiểm tra chưa sát nên vi phạm vẫn xảy ra.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh, Nghị quyết Đại hội Đảng XII, và các Nghị quyết của Trung ương đều xác định phải phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Bộ Tài chính đã và đang đề ra nhiều giải pháp để xây dựng một nền tài chính quốc gia an toàn, hiệu quả, hiệu lực đúng định hướng, đường lối của Đảng. Để tăng cường KLTK, đặc biệt là kỷ luật tài chính, ngành cần kiên quyết và điều hành chi ngân sách theo dự toán mà Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thông qua. Tuyệt đối không chi ngoài dự toán, trừ những trường hợp phát sinh, cấp bách, cần phải chi đảm bảo đời sống của nhân dân. Tất cả các khoản chi phải được dự toán, cắt giảm những khoản chi không cần thiết; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong khoản chi ngân sách, đặc biệt trong chi thường xuyên… Bộ Tài chính sẽ không ban hành các chính sách khi không chuẩn bị được nguồn ngân sách. Ngoài ra, phải công bằng, công khai các khoản chi NSNN. Để tuân thủ KLTK, thực tế, Chính phủ đã từng bước minh bạch hóa các thông tin liên quan đến tình hình KLTK thông qua các báo cáo định kỳ, thường xuyên và gắn kết trách nhiệm về việc tuân thủ KLTK. Đồng thời, tổ chức giám sát thực thi KLTK, đẩy mạnh công khai ngân sách và việc giám sát này đã được thể chế hóa bởi Quốc hội./.

Minh Phương