|
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng chủ trì họp báo. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Theo thông lệ kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay, bước vào năm mới, Chính phủ ban hành các Nghị quyết 01 và 02 nhằm đề ra các giải pháp quyết liệt triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội ngay từ những ngày đầu, tuần đầu của năm mới.
Trong đó, Nghị quyết 01/NQ-CP đề cập đến các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021. Nội dung Nghị quyết 02/NQ-CP tập trung vào cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021.
Phát biểu mở đầu họp báo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng gửi lời chào, lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc, thành công, thịnh vượng đến đại diện lãnh đạo các Bộ và tất cả phóng viên cùng gia đình.
Người phát ngôn của Chính phủ nhắc lại, vừa qua, trong các ngày 28 và 29/12/2020, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương. Tại Hội nghị, Chính phủ và các địa phương đã thảo luận, thống nhất đánh giá đánh giá tình hình, kết quả năm 2020 và 5 năm giai đoạn 2016-2020. Đồng thời thống nhất cao đối với 02 dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển KTXH, dự toán NSNN và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. Đến nay, dự thảo 2 Nghị quyết đã được hoàn thiện, tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị. Ngày 01/01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã thay mặt Chính phủ ký ban hành 02 dự thảo Nghị quyết nêu trên.
Để nhìn nhận đầy đủ về giai đoạn 5 năm 2016-2020, trước hết chúng ta đánh giá giai đoạn 4 năm 2016-2019 khi chưa xuất hiện đại dịch COVID-19.
Như các đồng chí đã biết, năm 2019 là năm thứ 2 liên tiếp chúng ta thực hiện hoàn thành và hoàn thành vượt mức toàn bộ 12/12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao; là nền tảng để chúng ta hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2020 và giai đoạn 2016-2020 như nhận định của nhiều chuyên gia, nhà phân tích kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tăng từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên khoảng 517 tỷ USD năm 2019; liên tục xuất siêu, năm sau cao hơn năm trước. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt bình quân 25,5% GDP, cao hơn mức bình quân giai đoạn 2011-2015 (23,4% GDP). Bội chi ngân sách nhà nước ở mức 3,5% GDP, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 (5,4% GDP). Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng đạt 45,88% (cao hơn nhiều so với mức 33,58% giai đoạn 2011-2015). Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt 6%/năm (so với mức 4,27% giai đoạn 2011-2015). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2016-2019 đạt 33,5% GDP (đạt mục tiêu đề ra là 32-34%). Cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích cực, tỉ trọng đầu tư của khu vực nhà nước giảm. Tính đến hết năm 2019, 54% tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành trước 1,5 năm và vượt mục tiêu 10 năm (2010-2020).
Giai đoạn 2016-2019, Chính phủ đã tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử.
Cụ thể: Đã xây dựng và đưa vào vận hành các hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử, giúp đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp, như: Trục liên thông văn bản quốc gia; Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (E-Cabinet); Cổng Dịch vụ công quốc gia; Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Các giải pháp quyết liệt, hiệu quả của Chính phủ đã góp phần cải thiện rõ rệt xếp hạng quốc tế của Việt Nam. So với giai đoạn 2011-2015, Việt Nam đã tăng 20 bậc trên Bảng xếp hạng về Môi trường kinh doanh của WB, tăng 10 bậc trên Bảng xếp hạng về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 của IMF; tăng 12 bậc trên Bảng xếp hạng về Năng lực cạnh tranh du lịch của Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF; tăng 25 bậc trên Bảng xếp hạng về Hiệu quả logistics của Ngân hàng Thế giới WB; tăng 17 bậc trên Bảng xếp hạng về Đổi mới sáng tạo toàn cầu của WIPO; tăng 3 bậc trên Bảng xếp hạng về Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc.
Những kết quả đó là những thuận lợi, động lực để chúng ta bước vào năm 2020 với quyết tâm cao hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nhiệm kỳ. Tuy nhiên, dịch COVID-19 xuất hiện và bùng phát từ đầu năm đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện mục tiêu này. Nếu như quý I/2020, GDP tăng trưởng 3,82% do còn có những tác động trễ của quý IV/2019 thì đến quý II/2020, tăng trưởng GDP chỉ còn 0,36% đã cho thấy những tác động rất nặng nề của dịch COVID-19 đến tăng trưởng kinh tế của chúng ta.
Tuy nhiên, trước khó khăn, chúng ta càng nỗ lực, cố gắng để thực hiện được lời hiệu triệu của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã xác định khó khăn gấp đôi thì phải cố gắng gấp 3; đồng thời xác định phương châm “chống dịch như chống giặc” và quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển KTXH. Chúng ta đã ứng phó nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt có hiệu quả, đã giảm thiểu tối đa thiệt hại; được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao và trở thành một “hình mẫu” về cách thức kiểm soát dịch bệnh đạt hiệu quả cao nhất với mức chi phí tối thiểu. Sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành đã góp phần phát huy tính ưu việt của hệ thống chính trị nước ta, ý chí, sức mạnh Việt Nam, truyền thống yêu nước, đoàn kết, tương thân, tương ái, và sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong phòng chống dịch bệnh, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt.
|
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng phát biểu tại họp báo. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Chúng ta đã nỗ lực duy trì, phục hồi, phát triển kinh tế đạt kết quả cao nhất có thể. Nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn đã được ban hành kịp thời và tổ chức thực hiện tốt để duy trì ở mức cao các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, hỗ trợ người dân và các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội.
Trong năm 2020, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. GDP tiếp tục tăng trưởng 2,91%, là một trong số ít nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng dương trong năm 2020 (cao nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương), là một trong số 10 nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất; một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trong năm 2020.
Quy mô nền kinh tế tăng, đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 543,9 tỷ USD (tăng 5,2% so với năm 2019), xuất siêu đạt mức kỷ lục 19,1 tỷ USD trong bối cảnh thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh. Xuất khẩu nông sản đạt hơn 41 tỷ USD. Thu NSNN đạt 99,4% dự toán, hụt thu NSNN khoảng 36.000 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức dự báo khi báo cáo Trung ương tại Kỳ họp 13 và Quốc hội tại Kỳ họp 10 (189.200 tỷ đồng). Tỉ trọng chi thường xuyên giảm, còn khoảng 62-63% (giai đoạn 2011-2015 là khoảng 65%), tăng tỉ trọng cho chi đầu tư phát triển. Bội chi NSNN còn 4,1-4,2% GDP, giảm so với mức dự báo khi báo cáo Trung ương tại Kỳ họp 13 và Quốc hội tại Kỳ họp 10 (4,99%). Nợ công chỉ còn 55-56% GDP (giảm so với mức 63,7% cuối năm 2016), nằm trong giới hạn an toàn được Quốc hội quy định. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát tốt, bình quân cả năm ở mức 3,23%.
Giải ngân vốn đầu tư công đạt con số ấn tượng 82,8% kế hoạch giao, là mức cao nhất trong nhiệm kỳ này (năm 2016 đạt 80,3%, năm 2017 đạt 73,3%, năm 2018 đạt 66,87% và năm 2019 đạt 67,46%). An sinh xã hội và đời sống nhân dân được bảo đảm, công tác đối ngoại đạt được nhiều dấu ấn quan trọng. Trong năm, giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam đã tăng 29% lên mức 319 tỷ USD, là mức tăng cao nhất thế giới, xếp hạng 33 trên 100 thương hiệu lớn nhất thế giới (tăng 9 bậc so với năm 2019).
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ... tiếp tục phát triển và có nhiều tiến bộ. Công tác giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với người có công, người có hoàn cảnh khó khăn và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Kinh tế-xã hội khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều đổi mới và được cải thiện rõ rệt. 63% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, vượt xa mục tiêu 50% đã đề ra; 91% dân số tham gia bảo hiểm y tế; 9 bác sĩ và 28 giường bệnh trên một vạn dân; giảm tỉ lệ hộ nghèo đa chiều từ gần 10% năm 2015 xuống còn dưới 3% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Nhiều hoạt động đối ngoại được triển khai có chất lượng, hiệu quả cao, góp phần hoàn thành tốt vai trò của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trong năm 2020 đã hoàn thành việc đàm phán, ký kết 2 Hiệp định rất quan trọng là: Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP).
Quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường; chủ quyền quốc gia, môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước. Tham nhũng, tiêu cực từng bước được kiềm chế, có chiều hướng thuyên giảm. Nhiều vụ việc, vụ án lớn, nghiêm trọng được phát hiện, điều tra, tiến hành khởi tố, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tại Hội nghị tổng kết công tác phòng chống tham nhũng, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã có bài phát biểu rất quan trọng đánh giá thành công, kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng đồng thời cũng đưa ra những chỉ đạo, định hướng rất lớn. Không có lý do gì nói làm tốt công tác phòng chống tham nhũng là kìm hãm, chúng ta phải tiếp tục làm tốt công tác phòng chống tham nhũng, tạo ra sự minh bạch, lòng tin của nhân dân cả nước đối với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ để đầu tư hiệu quả, phát triển, thúc đẩy khởi nghiệp của các doanh nghiệp trong nước và niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta chứng minh chúng ta đã có sự tăng trưởng rất thành công, rất ngoạn mục.
Đồng thời, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định chính trị để tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội. Thời gian qua, chúng ta đã làm tốt công tác này. Chúng ta thấy có lẽ chưa bao giờ tình cảm, tấm lòng của người dân cả hướng về miền Trung bị ảnh hưởng của lũ bão lớn như vừa qua. Trên đường, cứ 3 xe thì có 2 xe chở hàng ủng hộ nhân dân miền Trung, vô cùng ấm áp, cảm động.
Tựu chung lại, như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhận xét tại Hội nghị ngày 28/12/2020, năm 2020 được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua với những kết quả, thành tích đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc nêu cao lòng yêu nước, tình đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn lại cả chặng đường 5 năm giai đoạn 2016-2020, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đó là: Đã tạo ra hơn 1.200 tỷ USD giá trị GDP; riêng năm 2020, duy trì mức tăng trưởng dương dù đối mặt với sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ Đại suy thoái 1929-1932. Quy mô kinh tế đạt hơn 340 tỷ USD – đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (vượt mục tiêu đề ra là 30 - 35%). Tăng trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ hơn khoa học, công nghệ. Bội chi NSNN bình quân giai đoạn ở mức 3,6-3,7% GDP, đạt mục tiêu đề ra (khoảng 4%) và giảm so với giai đoạn trước (khoảng 5,4% GDP theo Luật NSNN 2015).
Bên cạnh đó, hơn 8 triệu việc làm mới đã được tạo ra, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên. Tính cả nhiệm kỳ qua, thu nhập bình quân của người dân đã tăng gần 145%. WB đánh giá nếu tính theo sức mua tương đương, thu nhập trung bình đầu người của chúng ta đạt tương đương gần 9.000 USD.
Vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định là một động lực quan trọng của đất nước. Doanh nghiệp của Việt Nam đang dần chiếm lĩnh một số vị trí then chốt của nền kinh tế. Ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam chuyển hướng đầu tư vào công nghệ, sáng tạo, nắm bắt và làm chủ các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều sản phẩm hàng hóa do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất đã gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế phát triển nhanh nhưng tình trạng bất bình đẳng được kiểm soát tốt, cả bình đẳng về thu nhập lẫn bình đẳng giới. Báo cáo gần đây của UNDP đã xếp Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam vào nhóm phát triển cao của thế giới.
Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; an ninh lương thực được bảo đảm; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ đang trở thành xu hướng. Xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm. Công nghiệp chuyển biến theo chiều sâu với tỉ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020; tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 23% lên 50% trong cùng kỳ. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học, công nghệ cao như viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử phát triển khá nhanh.
Công tác cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính đạt nhiều kết quả ấn tượng.
Chúng ta đã cắt giảm, đơn giản hóa 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh, 6.776/9.926 danh mục dòng hàng phải kiểm tra chuyên ngành và 30/120 TTHC liên quan đến kiểm tra chuyên ngành. Tổng chi phí xã hội tiết kiệm được từ việc cắt giảm, đơn giản hóa vào khoảng hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm. Cổng Dịch vụ công quốc gia sau hơn 1 năm đi vào hoạt động đã tích hợp, cung cấp hơn 2.700 dịch vụ công trực tuyến trên 6.798 TTHC tại 4 cấp chính quyền (đạt tỷ lệ hơn 39%, vượt chỉ tiêu Chính phủ giao 9%); hơn 100,5 triệu lượt truy cập; hơn 27,5 triệu hồ sơ TTHC được đồng bộ trạng thái lên cổng; hơn 744,8 nghìn hồ sơ thực hiện trực tuyến từ Cổng Dịch vụ công Quốc gia (cao điểm 1 ngày nhận 12.000 hồ sơ).
Dịch vụ thanh toán trực tuyến đã tích hợp, cung cấp với 14 bộ, ngành và 54/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đã có hơn 48.000 lượt giao dịch thành công qua Cổng... Tổng chi phí tiết kiệm khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia từ khi khai trương đến nay là khoảng 8 nghìn tỷ đồng/năm. Trục liên thông văn bản quốc gia đã kết nối, liên thông gửi, nhận văn bản điện tử giữa 95/95 cơ quan trung ương, địa phương với hơn 3,8 triệu văn bản điện tử, chi phí tiết kiệm khoảng 1.200 tỷ đồng/năm. Hệ thống thông tin phục vụ họp và phục vụ xử lý công việc của Chính phủ (e-Cabinet) đã phục vụ 24 phiên họp Chính phủ, thay thế hơn 225.000 hồ sơ, phiếu lấy ý kiến Thường vụ Chính phủ, giúp tiết kiệm mỗi năm khoảng 169 tỷ đồng. Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kết nối với 14 bộ, cơ quan và 37 địa phương với 106/200 chỉ tiêu kinh tế-xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; 63/63 tỉnh, thành phố đã cung cấp dữ liệu trực tuyến về 8 chỉ tiêu kinh tế xã hội; chi phí tiết kiệm khi vận hành Hệ thống này khoảng 460 tỷ đồng/năm.
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế tiếp tục được cải cách, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, phương pháp xây dựng theo hướng tích hợp, cắt giảm tối đa số lượng đầu văn bản quy định chi tiết để đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tránh phát sinh thủ tục hành chính, giảm chồng chéo, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tra cứu và thực thi. Số văn bản quy định chi tiết nợ đọng, chậm ban hành giảm thấp nhất từ trước đến nay; năm 2017 là năm đầu tiên không nợ văn bản quy định chi tiết thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Hết năm 2020 chỉ còn nợ 6 văn bản, giảm mạnh so với số lượng văn bản nợ đọng cuối nhiệm kỳ khóa XII (58 văn bản) và nhiệm kỳ khóa XIII (39 văn bản).
|
Quang cảnh họp báo. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Người phát ngôn của Chính phủ nhấn mạnh: Các kết quả trên chính là những dấu ấn nổi bật của Chính phủ trong giai đoạn vừa qua, góp phần làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhận định, tạo niềm tin, nguồn lực và động lực mới để chúng ta vững bước tiến tới Đại hội XIII của Đảng và thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội sẽ đề ra.
Năm 2021 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Với ý nghĩa như vậy, yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra là rất lớn. Trong khi đó, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đại dịch COVID-19 chưa thể sớm kết thúc, ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực. Ở trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp; yêu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn chế. Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức, đòi hỏi chúng ta không được chủ quan với những kết quả đã đạt được mà cần phải tiếp tục nỗ lực, cố gắng nhiều hơn nữa trong năm 2021 và thời gian tới.
Nhiều tổ chức quốc tế vẫn đánh giá rất cao về tiềm năng phát triển của Việt Nam trong năm 2021 (WB dự báo 6,8%; ADB dự báo 6,3%; IMF dự báo 6,7%, Standard Chartered dự báo 7,8%; Goldman Sachs dự báo 8,1%...). Để hiện thực hóa tiềm năng tăng trưởng như đánh giá của các tổ chức quốc tế, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết 01, 02 với nhiều nhiệm vụ, giải pháp hết sức cụ thể.
Thông tin về Nghị quyết 01, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết Nghị quyết tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
Cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định thông điệp của năm 2021 là:
Tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số trong khu vực và thế giới.
Phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết, chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, với niềm tin, ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ, nỗ lực phấn đấu hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030, sớm hiện thực hóa khát vọng phát triển về tầm nhìn đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Năm 2021 phải đạt được nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm 2020 như phát biểu chỉ đạo, giao nhiệm vụ của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương tháng 12/2020.
Để thực hiện được những yêu cầu trên, phương châm hành động của năm 2021 được xác định là “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển”
Cùng với việc thực hiện mục tiêu hoàn thành toàn diện 12 chỉ tiêu chủ yếu được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 124/2020/QH14, để tạo nền tảng cho tăng tốc phát triển ngay từ năm đầu của giai đoạn 2021-2025, hướng tới phát triển nhanh và bền vững theo đúng Nghị quyết của Đảng, Quốc hội; trên cơ sở nhận định, đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế và với quyết tâm cao, Chính phủ đề ra mục tiêu phấn đấu tốc độ tăng GDP năm 2021 là khoảng 6,5% (cao hơn mức khoảng 6% Quốc hội giao). Đồng thời, Chính phủ đề ra 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch phấn đấu thực hiện và là căn cứ để kiểm tra, đánh giá, đo lường kết quả thực hiện Nghị quyết của các bộ, ngành, địa phương.
Để thực hiện được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, Chính phủ xác định 8 trọng tâm chỉ đạo điều hành, với 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu và 188 nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, phục vụ tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Chính phủ yêu cầu, các bộ khẩn trương xây dựng, ban hành chương trình hành động, kế hoạch công tác để triển khai thực hiện Nghị quyết.
Hai là, tiếp tục thực hiện quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Vaccine của chúng ta chưa áp dụng được nên sẽ phải mua. Dù có vaccine vẫn phải thực hiện tốt việc phòng chống, đặc biệt quản lý nhập cảnh, truy vết, cách ly tốt, khuyến khích người dân tham gia phát hiện tốt các trường hợp nhập cảnh, cư trú trái phép, trốn tránh cách ly.
- Tuyệt đối không chủ quan trước dịch bệnh, ngăn chặn hiệu quả nguồn bệnh xâm nhập từ bên ngoài. Đẩy nhanh việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong phát triển vaccine và có giải pháp để người dân tiếp cận vaccine phòng dịch COVID-19 sớm nhất.
- Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững; đồng thời tiếp tục nhất quán mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển, triệt để tiết kiệm các khoản chi chưa thật cần thiết, nhất là chi thường xuyên, giảm tối đa kinh phí hội nghị, công tác trong và ngoài nước để dành nguồn lực đầu tư cho phát triển. Chủ động bố trí nguồn lực và triển khai các giải pháp về tín dụng, tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí… để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, nhất là trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch, hàng không.
- Mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu. Chủ động giải quyết hài hòa quan hệ thương mại với các đối tác lớn. Triển khai hiệu quả các FTA đã ký kết, tiếp tục đàm phán các FTA mới. Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
- Quyết liệt thực hiện ngay từ đầu năm các giải pháp đẩy mạnh giải ngân gắn với nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn đầu tư công.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, xác định thể chế là nền tảng quan trọng cho phát triển đất nước. Rà soát, sửa đổi, bổ sung khắc phúc kịp thời những hạn chế, bất cập về cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật nhất là trong các lĩnh vực NSNN, thuế, đất đai, tài nguyên, môi trường, đầu tư, xây dựng, thương mại, quản lý thị trường... nhằm giải phóng các nguồn lực cho phát triển và tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi. Kịp thời ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật mới ban hành, bảo đảm chất lượng và giảm thiểu số lượng văn bản ban hành.
Bốn là, xây dựng hệ thống hành chính Nhà nước kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện bộ máy Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm hiệu quả, thực chất gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, cung cấp các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp, thu hút mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Năm là, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công. Ban hành chính sách thử nghiệm các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh, công nghệ mới, như: kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, đô thị thông minh,… đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Tăng cường sử dụng văn bản điện tử, xử lý công việc trên môi trường mạng, đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 và tích hợp thanh toán trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Sáu là, nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ. Xác định đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Bảy là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, đặc biệt là về giao thông, năng lượng, đô thị lớn, ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Tập trung nguồn lực cho các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm như đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Biên Hòa - Vũng Tàu, một số công trình trọng điểm, giao thông liên vùng ở phía Bắc, nhất là ở vùng Tây Bắc; đẩy nhanh thực hiện thu phí sử dụng đường bộ theo hình thức điện tử không dừng; tập trung đầu tư giai đoạn 1 cảng hàng không quốc tế Long Thành, đầu tư, mở rộng các cảng hàng không quốc tế: Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng. Chú trọng phát triển hạ tầng vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu. Đẩy nhanh tiến độ các dự án đường ven biển kết nối liên vùng và các khu kinh tế, đô thị lớn ven biển cả nước, các dự án bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước.
- Tháo gỡ khó khăn cho các dự án trọng điểm ngành điện, huy động tối đa các nguồn lực bảo đảm cung ứng đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt. Rà soát các thủy điện nhỏ và vừa, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các nguồn điện gắn với bảo vệ môi trường.
- Khẩn trương lập và phê duyệt các quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn giai đoạn 2021-2030. Bảo đảm mặt bằng cho thu hút đầu tư, phát triển sản xuất.
Tám là, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia. Thực hiện tốt các chính sách giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao… bảo đảm cơ hội bình đẳng cho mọi người, thúc đẩy xã hội hóa gắn với hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, người yếu thế trong xã hội.
Chín là, chú trọng phát triển bền vững, xác định rõ và tập trung thực hiện đồng bộ hài hòa các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường. Kiên quyết không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế. Khẩn trương triển khai kế hoạch trồng 1 tỷ cây xanh (500.000 ha). Chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Tăng cường năng lực phòng, chống thiên tai và tìm kiếm, cứu nạn. Có giải pháp tổng thể phòng, chống thiên tai ở các vùng chịu nhiều rủi ro thiên tai.
Mười là, tiếp tục củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Tiếp tục đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc.
Mười một là, đẩy mạnh thông tin, truyền thông, kịp thời phản ánh, lan tỏa các nhân tố tích cực, góp phần củng cố niềm tin, tạo đồng thuận trong toàn xã hội.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước ngày 20/01/2021 xây dựng, ban hành chương trình, kế hoạch hành động để triển khai thực hiện Nghị quyết 01; theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nghiêm túc triển khai thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất và toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Nghị quyết, tạo chuyển biến rõ nét ngay từ đầu năm; theo dõi sát diễn biến trong nước và quốc tế, chủ động phân tích, đánh giá, dự báo để có các giải pháp kịp thời, tổng thể, đồng bộ, tận dụng thời cơ, thuận lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực, thúc đẩy phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương.
Đối với Nghị quyết 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021, trong bối cảnh Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về Chương trình cắt giảm quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025, với mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, Nghị quyết 02 năm nay đề ra thông điệp của Chính phủ là Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, liên tục bởi nếu chúng ta đứng yên hoặc cải cách chậm hơn thì tức là thụt lùi và sẽ bị bỏ lại phía sau.
Trên cơ sở đó, Nghị quyết yêu cầu tiếp tục thực hiện các mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 68, và đề ra 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chung cho các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, gồm: (1) Đề ra phương hướng, yêu cầu tập trung chỉ đạo khắc phục ngay những hạn chế, vướng mắc trong công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị bởi đây vẫn là khâu yếu; (2) Tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đồng bộ với thực hiện cải cách hành chính; (3) Tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch trung, dài hạn với mục tiêu rõ ràng, lộ trình cụ thể để tạo chuyển biến vững chắc đối với các chỉ tiêu có tính chất nền tảng nhưng khó cải thiện trong thời gian ngắn; (4) Tiếp tục chú trọng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19.
Để tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao: VCCI tiếp tục thực hiện việc đánh giá độc lập và công bố Báo cáo đánh giá tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết số 02, kịp thời đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Các bộ, ngành, địa phương:
- Chủ động xây dựng và ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị quyết số 02 năm 2021, trong đó xác định cụ thể, đầy đủ các nhiệm vụ, gắn với trách nhiệm và thời hạn hoàn thành, nhất là đối với các bộ chỉ số mà nhiều năm chúng ta chưa có tiến bộ, còn nhiều dư địa để cải cách như: Đăng ký tài sản, Giải quyết tranh chấp hợp đồng, Giải quyết phá sản doanh nghiệp….; có kế hoạch tái cấu trúc quy tình nghiệp vụ để triển khai các dịch vụ công mức độ 3, 4 theo đúng yêu cầu của Nghị quyết, nhất là trong các lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, an sinh xã hội; Đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử và chính quyền điện tử, tận dụng thế mạnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tập trung chuyển đổi số trong nội khối cơ quan hành chính để tạo thuận lợi trong cung cấp dịch vụ công, tiết giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
- Lưu ý tới tác động đến các chỉ số môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của đất nước trong quá trình tham mưu cho Chính phủ trong hoạch định chính sách liên quan đến doanh nghiệp để cải thiện các chỉ số này trên trường quốc tế.
- Thực hiện nghiêm chế độ thông tin báo cáo, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện và khách quan khi đánh giá tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chủ động đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để có thể giúp cải thiện điểm số và thứ hạng môi trường kinh doanh Việt Nam do WB đánh giá về kết quả cải thiện môi trường kinh doanh thời gian sắp tới.
|
Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng nhấn mạnh: "Để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và các Nghị quyết 01, 02 của Chính phủ, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của các bộ, cơ quan, địa phương, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của các cơ quan thông tấn, báo chí mà trực tiếp, thường xuyên là các phóng viên, báo chí có mặt ngày hôm nay. Việc đưa tin kịp thời, truyền tải đầy đủ thông tin đến các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng để chúng ta có thể tập trung triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả 2 Nghị quyết này ngay từ những ngày đầu tiên của năm 2021, góp phần khơi dậy ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết, nỗ lực, cố gắng và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2021, kế hoạch 05 năm và Chiến lược 10 năm theo Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Tôi mong rằng, các đồng chí phóng viên báo chí có mặt hôm nay sẽ chung sức, đồng lòng, cùng với Chính phủ thực hiện thành công nhiệm vụ này".
Nhóm PV