|
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh khẳng định vai trò quan trọng của SHTT trong phát triển KTXH. Ảnh: VGP |
Đây là vấn đề được nêu ra tại tọa đàm “Vai trò của sở hữu trí tuệ với phát triển kinh tế xã hội” do Bộ KH&CN phối hợp với Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) tổ chức ngày 9/5.
Các nhà quản lý, các chuyên gia đã cùng thảo luận về vai trò và cách thức gắn kết nội dung SHTT vào các chính sách phát triển KT-XH trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xác định vai trò quan trọng của các Bộ, ngành trong việc lồng ghép và triển khai các vấn đề SHTT trong chính sách phát triển của ngành, lĩnh vực. Đồng thời, tiếp thu các khuyến nghị của chuyên gia đối với dự thảo Chiến lược SHTT của Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh khẳng định, hệ thống SHTT với cơ chế bảo hộ độc quyền cho các thành quả sáng tạo và chống cạnh tranh không lành mạnh là động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo và phổ biến sản phẩm sáng tạo. Qua đó, làm giàu tài sản trí tuệ - một nguồn tài nguyên tạo nên nội lực quốc gia phục vụ trực tiếp cho sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng, hệ thống SHTT chưa tiếp cận được với cách thức mới là một cấu phần quan trọng trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Đóng góp của SHTT vào sự phát triển KT-XH của đất nước còn có hạn chế nhất định.
Mặc dù số lượng sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, giống cây trồng, các tác phẩm văn học - nghệ thuật của Việt Nam được tạo ra và được bảo hộ không ngừng gia tăng, nhưng số lượng tài sản trí tuệ có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam không nhiều, ít sản phẩm có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực cũng như toàn cầu.
Theo các chuyên gia về SHTT, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó nguyên nhân nổi bật là chưa gắn kết được một cách chặt chẽ vấn đề SHTT trong các chính sách, hoạt động của các ngành, lĩnh vực KT-XH. Kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy nội dung SHTT luôn là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển các ngành KT-XH, từ công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa đến y tế, giáo dục, môi trường....
Để khắc phục được hạn chế nêu trên và đặc biệt từ yêu cầu phát triển KT-XH trong điều kiện mới đặt ra yêu cầu phải xây dựng Chiến lược SHTT quốc gia nhằm xây dựng các quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để bảo đảm SHTT thực sự trở thành công cụ đóng góp vào các mục tiêu phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương và cả quốc gia. Để làm được điều đó, hệ thống SHTT quốc gia phải được đặt trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, tạo động lực để tăng cường đổi mới sáng tạo, thúc đẩy việc ứng dụng tri thức để tạo ra sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, đảm bảo tiến trình biến đổi tri thức thành các lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Theo Cục trưởng Cục SHTT Đinh Hữu Phí, các viện nghiên cứu, trường đại học là nơi tạo ra tri thức công nghệ. Doanh nghiệp là nơi ứng dụng tri thức và công nghệ để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ, tạo ra nhu cầu tự thân của doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực tiếp thu, ứng dụng và đổi mới công nghệ, cao hơn là khẳ năng nghiên cứu phát để phát triển các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo lập và phát triển các định chế trung gian như: Các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ, các khu làm việc chung, các khu làm việc chung, các tổ chưc thúc đẩy kinh doanh để hoạt động đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo. Các chính sách kinh tế, thị trường cùng với đó là các thiết chế tài chính Quỹ KH&CN của doanh nghiệp, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, các quỹ đầu tư mạo hiểm có vai trò thúc đẩy mạnh mẽ…
Đồng quan điểm, ông Ian Heath, chuyên gia tư vấn của WIPO đã lấy hình ảnh kiềng 3 chân để chỉ ra 3 trụ cột vững chắc để thúc đẩy năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam là: tiền bạc, nghiên cứu và phát triển, đào tạo. Để thế kiềng 3 chân vững chắc cần có vai trò điều phối của Chính phủ trong cải thiện Chiến lược SHTT Việt Nam.
Ông Ian Heath cũng gợi ý 4 vấn đề trong Chiến lược để biến thành công cụ phát triển: cần xây dựng cơ chế tham vấn mạnh mẽ giữa các bên liên quan; đảm bảo hệ thống luật pháp ổn định, thường xuyên rà soát cập nhất với tình hình hiện tại; có chương trình hỗ trợ khối tư nhân, bởi không thể có hệ thống SHTT tốt khi không có sự tham gia của khối này. Cuối cùng khâu quan trọng nhất là điều phối giữa các bên liên quan, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam để đảm bảo tốt thực hiện Chiến lược SHTT quốc gia.
Trong thời gian tới, để xây dưng dự thảo Chiến lược SHTT quốc gia, Bộ KH&CN đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập với sự tham gia tích cực của các thành viên đến từ các Bộ, ngành hữu quan và nhận được sự hỗ trợ, tham gia, tư vấn của các chuyên gia trong nước và quốc tế, đặc biệt là chuyên gia đến từ WIPO. Bộ cũng đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu, khảo sát và phân tích thực trạng của hệ thống SHTT trên cơ sở tham khảo phương pháp xây dựng chiến lược SHTT của WIPO.
Thu Cúc