Đây là diễn đàn trao đổi học thuật lần thứ 7, được tổ chức dưới hình thức luân phiên tại các trường thành viên với chủ đề được thay đổi qua mỗi năm.
Hội thảo được chia thành 4 phiên làm việc với 23 báo cáo chuyên đề được trình bày bởi 28 chuyên gia quốc tế đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc - là những nước sở hữu nền kinh tế hàng đầu tại Châu Á, cùng nhiều học giả từ các viện nghiên cứu, trường đại học, các khoa chuyên ngành về Kinh tế ở Việt Nam.
Hội thảo mang đến những góc nhìn đa chiều, những phân tích vừa tổng quan vừa cụ thể về tác động lan tỏa tích cực của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế ở cả các nước phát triển và đang phát triển, xu hướng dòng vốn FDI trên thị trường cũng như đề xuất những giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp nhằm góp phần phát triển kinh tế của nước chủ nhà thông qua việc tạo việc làm, chuyển giao công nghệ sản xuất mới, chia sẻ kỹ năng quản lý và kiểm soát sản xuất cũng như cấp vốn trực tiếp,…
Nhóm đề tài Đại học Nagasaki – Nhật Bản:
Báo cáo “Xu hướng FDI Nhật Bản tại các nước Đông Nam Á” của GS. Yasuhiro Yamada, Đại diện viện nghiên cứu Hội nhập Đông Á (ASEAN–Japan) chỉ ra rằng, Đông Nam Á là khu vực dẫn đầu thế giới về tăng trưởng kinh tế bền vững trong 3 thập kỷ qua nhờ những cải cách mạnh mẽ về môi trường kinh doanh cũng như hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bằng chứng cụ thể với Việt Nam là thu nhập bình quân đầu người từ 1.120 USD năm 2009 đã lên mức 1.990 USD năm 2015. Mức thu nhập này được đánh giá là ở ngưỡng các nước trung lưu và trong tương lai sẽ là nước có mức thu nhập trung bình đầu người cao tầm 12.745 USD. Trong tương lai, các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là Việt Nam sẽ trở thành địa điểm hấp dẫn của các nhà đầu tư trên thế giới nhờ có yếu tố tích cực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như những cải thiện đổi mới và phát triển của môi trường kinh doanh.
Để tận dụng được tốt xu hướng này, các nước châu Á cần phải quan tâm đến chất lượng dự án đầu tư nước ngoài, đồng thời tăng cường khả năng kết nối của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo ra cơ hội phát triển toàn diện và bền vững cũng như thúc đẩy hội nhập và mậu dịch tại khu vực châu Á để lựa chọn kế hoạch đầu tư mới, mở rộng hợp tác và phát triển lâu dài.
Bằng các nghiên cứu điển hình trong đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản - Các nghiên cứu về các nhà bán lẻ Nhật Bản đối với thị trường Châu Á”, PGS. Atsuji Ohara - Đại học Nagasaki (Nhật Bản) chỉ ra rằng, châu Á là thị trường tiềm năng thu hút các nhà đầu tư Nhật bằng mạng lưới khách hàng mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu ở các thị trường mới nổi – nơi mà các nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn vốn của mình mở rộng thương hiệu và mô hình kinh doanh. Các nhà bán lẻ Nhật Bản đang mở rộng FDI từ thị trường Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á bằng chiến lược đa dạng hóa hơn là chỉ tập trung vào thị trường Trung Quốc.
Đối với lĩnh vực viễn thông, tin học và công nghệ thông tin, báo cáo “Các cụm công nghiệp và Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, tin học và công nghệ thông tin tại châu Á” của PGS. Takahiro Kawamata - Đại học Nagasaki (Nhật Bản) chỉ ra tiềm năng của thị trường Đông Á và Đông Nam Á, trong đó không chỉ bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản mà còn bao gồm Đài Loan và Việt Nam về truyền thông di động, công nghệ dịch vụ và các ứng dụng được các nước sử dụng (viết tắt là I&CT). Thuật ngữ “Hệ sinh thái” được dùng để mô tả những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu ngành của các hạng mục đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực viễn thông, tin học và công nghệ thông tin.
Nhóm đề tài Đại học Dong-A – Hàn Quốc:
Nhóm tác giả gồm PGS. Pan-Do Sohn và NCS. Minh-Quy Tran đưa ra nhiều số liệu cho việc “Tại sao các công ty Hàn Quốc lại chọn đầu tư vào Việt Nam?”. Theo báo cáo, nếu năm 1986, dòng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam gần như bằng không thì đến 2016, con số này đã đạt hơn 15 tỷ USD, trong đó các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 14% GDP của Việt Nam. Số liệu từ Cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư cho thấy, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2016 của Việt Nam ước tính đạt 15.8 tỷ USD, cao kỷ lục và tăng 9% hằng năm. Số dự án được cấp phép năm 2016 là 2.556 với 15.1 tỷ USD trong tổng số vốn đăng kí, tăng 27% về số dự án.
Hiện nay, rất nhiều quốc gia lớn trên thế giới trong đó Hàn Quốc quyết định lựa chọn đầu tư vào Việt Nam đã góp phần thay đổi hình ảnh của Việt Nam. Đó cũng là lí do vì sao Hàn Quốc – một nước Châu Á mới nổi được xếp hạng đầu tiên về cả số lượng và dự án tích lũy trong đầu tư vào Việt Nam, tiếp sau đó là Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông. Hiện tại, các công ty Hàn Quốc đang đầu tư vào 44 tỉnh, thành phố của Việt Nam và tập trung vào 3 khu vực thương mại trọng điểm, chiếm gần 85% tổng vốn đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc tại Việt Nam. Trên hết, Việt Nam đang trở thành một trong những quốc gia đầu tư hấp dẫn không chỉ đối với các nước Châu Á, mà còn các nước lớn như Mỹ và Châu Âu.
Theo báo cáo “So sánh CSR (trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) ở Đông Á: Đo lường các công ty toàn cầu từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc”, GS. Suk Jun Lim, ĐH Dong-A – Hàn Quốc nhận định rằng, với chiến lược toàn cầu hóa, từ đầu thập niên 90, các công ty của Hàn Quốc và Nhật Bản đã bắt đầu tăng đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài được tập trung vào các nước phát triển ở khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và ngày càng nhiều công ty đầu tư vào thị trường này, giúp Hàn Quốc và Nhật Bản trở thành hai nền kinh tế lớn của Châu Á có ảnh hưởng rất lớn đến các nước trong khu vực ASEAN. Công cuộc mở cửa nền kinh tế và phát triển theo hướng thị trường hóa đã mang lại cho hai quốc gia này những thành tựu kinh tế rõ nét, bằng chứng cụ thể là tạp chí Forbes - một tạp chí uy tín hàng đầu của thế giới công bố danh sách Global 2000 (2000 công ty lớn nhất thế giới) năm 2016, trong đó khu vực Châu Á nổi trội lên trong danh sách gồm 219 công ty Nhật Bản và 67 công ty Hàn Quốc.
Quang cảnh tại Hội thảo
Nhóm đề tài Đại học Huaqiao – Trung Quốc:
Theo báo cáo mới nhất trong nghiên cứu “Phân tích về thương mại Trung Quốc–ASEAN và việc xây dựng mô hình đảo ngược chuyển giao kiến thức” của GS. Zhang Hua, Đại học Huaquiao (Trung Quốc), các nhà đầu tư Trung Quốc ngày càng quan tâm đến đầu tư vào khu vực Châu Á đang phát triển, trong đó có khu vực ASEAN. Bằng chứng là đầu tư Trung Quốc vào ASEAN đã tăng lên từng năm, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào ASEAN năm 2015 là 14,604 tỷ USD, lần đầu tiên vượt qua con số 10 tỷ USD, tăng 87% so với năm trước. Đồng thời, trên cơ sở phân tích các doanh nghiệp Trung Quốc theo chế độ của OFDI (sử dụng tài sản và tìm kiếm tài sản) và lựa chọn địa lý (10 quốc gia ASEAN), báo cáo cũng đề xuất xây dựng mô hình chuyển giao kiến thức ngược về thương mại Trung Quốc - ASEAN.
Nhóm đề tài Đại học Đông Á – Việt Nam:
Bằng cách phân tích dữ liệu hàng năm từ cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á trong giai đoạn 1989 - 2011, tham luận “Sự tác động của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” của TS. Bùi Văn Viễn cho thấy Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam khi 1% FDI tăng lên sẽ dẫn đến sự gia tăng 0.243% GDP. Việt Nam cũng cần giải quyết những khó khăn kinh tế vĩ mô hiện nay như lạm phát, nợ xấu, lượng hàng tồn kho cao... bên cạnh có những giải pháp phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội - giáo dục đi đôi với cải thiện chính sách đầu tư hấp dẫn, tạo môi trường đầu tư cạnh tranh hơn để thu hút FDI.
Đề tài cụ thể về “Thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp tại tỉnh Quảng Nam: Cơ hội cho những nhà đầu tư”, bên cạnh nhiều hạng mục đang thu hút đầu tư mạnh mẽ tại Quảng Nam như các dự án nhà máy điện, 80 dự án đầu tư ở 4 lĩnh vực Công nghiệp - Du lịch - Nông nghiệp - Phát triển đô thị trong giai đoạn 2017 - 2020, TS. Trần Ngọc Sơn cũng đề xuất các hướng đầu tư tiềm năng, tập trung vào các “đặc sản” tại Quảng Nam như: đầu tư công nghệ sinh học và các nhà máy chế biến bòn bon Tiên Phước; nhà máy sản xuất yến sào tại đảo yến Cù Lao Chàm, Hội An; công nghệ nhân giống sâm Ngọc Linh; công nghệ khai thác vàng tại Bồng Miêu và Phước Sơn – hai mỏ vàng lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở mối liên kết hợp tác giữa Đại học Dong-A (Hàn Quốc), Đại học Nagasaki (Nhật Bản) với Đại học Đông Á từ 2013 đến nay và Hội thảo quốc tế lần này, 4 trường đại học cũng đạt được sự thống nhất cao và sẵn sàng xúc tiến hợp tác nhiều mặt dựa trên thế mạnh của từng thành viên trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là chia sẻ sáng kiến và chuyển giao công nghệ mang tính ứng dụng cao thuộc các lĩnh vực công nghệ thông tin mã nguồn mở, điều dưỡng, công nghệ thực phẩm – sinh học, kinh tế, truyền thông quốc tế,... Đồng thời tăng cường trao đổi giảng viên, sinh viên và bồi dưỡng chuyên môn bằng những học bổng toàn phần đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ,... hằng năm.
Năm 2016, Hội thảo quốc tế về “Công nghệ xanh cho chuỗi thực phẩm sạch” với sự tham gia của các chuyên gia đến từ Hoa Kỳ, Hàn Quốc cũng đã được tổ chức tại Đại học Đông Á, trong đó đưa ra nhiều khuyến cáo và giải pháp công nghệ mới cho chiến lược xây dựng chuỗi thực phẩm sạch, bảo vệ sức khỏe cho người dân./.
Bài, ảnh: Ngọc Duyên