Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng chủ trì họp báo. (Ảnh: HNV) 

Tại họp báo, Thứ trưởng Bộ kế hoạch và Đầu tư Vũ Đại Thắng đã nêu tổng quan nội dung 3 Luật; khẳng định đây là những đạo luật có ý nghĩa hết sức quan trọng và được Quốc hội thông qua với tỷ lệ đại biểu tán thành rất cao.

Theo đó, Luật Đầu tư được ban hành với mục tiêu tổng thể là nhằm tiếp tục tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, bình đẳng, an toàn và thân thiện cho mọi người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư kinh doanh.

Luật có 07 Chương, 77 Điều và 4 Phụ lục, đáng chú ý là các quy định về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (các Điều 6, 7, 8 và 9); về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư (các Điều từ 15 đến 20); về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư và thực hiện dự án đầu tư, trong đó nhấn mạnh nhằm tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí không cần thiết trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Ngoài ra, Luật đã hoàn thiện, bổ sung các công cụ cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư, bảo đảm an ninh quốc phòng.

Với Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), ngày 18/6/2020, Quốc hội thông qua. Đây là lần đầu tiên có bộ luật này và được thông qua. Xuất phát từ các lý do:

Thứ nhất, việc ban hành một đạo luật riêng để bảo đảm tính đặc thù của đầu tư PPP tạo môi trường pháp lý ổn định hơn cho doanh nghiệp, tránh tình trạng “vay mượn” quy định của các pháp luật khác. Trước kia, quy định chi tiết cho hoạt động PPP chỉ dừng ở cấp nghị định, chịu sự điều chỉnh của nhiều Luật khác nhau như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Quản lý nợ công... Khung pháp lý ở cấp nghị định sẽ không ổn định, liên tục phải điều chỉnh, gây nhiều bất lợi cho cả phía nhà nước và doanh nghiệp khi thực hiện các dự án PPP có quy mô đầu tư lớn, dài hạn.

Thứ hai, việc xây dựng khung pháp lý có hiệu lực cao hơn, ổn định hơn giúp tránh được các rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp thay đổi chính sách. Hợp đồng dự án PPP thường kéo dài từ 20 – 30 năm. Nhà đầu tư cũng như các bên cho vay thường yêu cầu tính bền vững của các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng. Luật PPP được ban hành là cơ sở cho việc hoàn thiện môi trường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng một cách bền vững, lâu dài.

Thứ ba, Luật PPP hoàn thiện các cơ chế tổng thể bao gồm các hình thức hỗ trợ, ưu đãi và bảo đảm đầu tư từ phía Nhà nước cho nhà đầu tư để tăng tính hấp dẫn của dự án, thu hút đầu tư mạnh mẽ cũng như bảo đảm việc thực hiện dự án thành công. Đây là chính sách then chốt của Luật PPP, được nhiều nhà đầu tư, tổ chức quốc tế quan tâm và đánh giá là bước tiến trong chính sách thu hút đầu tư qua PPP tại Việt Nam.

Luật PPP với sự kế thừa những quy định tốt đã và đang thực hiện, đồng thời bổ sung các nội dung mới, quan trọng bảo đảm tính đặc thù của đầu tư PPP, tạo môi trường pháp lý ổn định hơn cho các dự án PPP trong thời gian tới.

Các đại biểu tham dự họp báo. (Ảnh: HNV) 

Chính phủ dự kiến ban hành 03 Nghị định hướng dẫn Luật PPP, cụ thể: Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PPP (Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì); Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PPP về lựa chọn nhà đầu tư (Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì); Nghị định quy định về cơ chế tài chính trong đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Bộ Tài chính chủ trì). Dự kiến các Nghị định sẽ được sớm ban hành để kịp thời hướng dẫn thực hiện Luật PPP (có hiệu lực thi hành vào 01/01/2021).

Luật Doanh nghiệp, mục tiêu tổng quát là hoàn thiện khung khổ pháp lý về tổ chức quản trị doanh nghiệp đạt chuẩn mực của thông lệ tốt và phổ biến ở khu vực và quốc tế; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút vốn, nguồn lực vào sản xuất kinh doanh; góp phần nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh theo mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra là thuộc nhóm các nước ASEAN 4.

Luật có 10 Chương, 218 Điều. Những cải cách quan trọng nhất của Luật này bao gồm: Cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường; nâng cao khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp và nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt và phổ biến; nâng cao hiệu lực quản trị và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có sở hữu nhà nước; thúc đẩy phát triển thị trường vốn nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho sản xuất, đầu tư kinh doanh và tạo thuận lợi hơn cho tổ chức lại và mua bán doanh nghiệp./.

 
Lê Anh