Ngày 24/6/2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 (Nghị quyết 76), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 về Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13; qua kết quả tổ chức thực hiện, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại văn bản số 438/BC-CP ngày 17/10/2016 về kết quả 2 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13 (giai đoạn 2015-2016).
Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 22/8/2017 về Kế hoạch rà soát, tích hợp chính sách giảm nghèo giai đoạn 2017-2018.
Nhìn lại 2 năm tiếp tục thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13 (giai đoạn 2017-2018), Báo cáo Chính phủ tại phiên họp thứ 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẳng định, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nghiêm túc chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao theo Nghị quyết 76 về tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến năm 2020; các bộ, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao; khuôn khổ văn bản pháp lý để triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cơ bản đã được hoàn thiện; cơ chế quản lý điều hành, phân công phân cấp, phối hợp, lồng ghép trong tổ chức thực hiện đã từng bước được hình thành và đi vào nền nếp; nhiều mục tiêu đề ra trong Nghị quyết đã được tổ chức thực hiện đạt và vượt tiến độ đề ra.
Để tiếp tục đẩy mạnh và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 76 trong thời gian tới, Chính phủ đã đề ra hàng hoạt nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, toàn diện với mục tiêu phấn đấu đến hết năm 2020, tỉ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống dưới 4% theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020; tỉ lệ bình quân hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm xuống dưới 30%.
Các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể được đề ra và tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện là: Tiếp tục rà soát, đánh giá hệ thống chính sách giảm nghèo, trên cơ sở đó lồng ghép các chính sách, loại bỏ các chính sách chồng chéo, không hiệu quả, nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với tiêu chí cụ thể như đối tượng, địa bàn, thời gian thụ hưởng; đảm bảo tính hiệu quả của chính sách và tính khả thi trong bố trí nguồn lực thực hiện; tích hợp một số chính sách hiện đang trợ cấp bằng tiền mặt thành một gói trợ cấp có điều kiện để giảm đầu mối cơ quan quản lý, chi trả và tạo điều kiện thuận lợi, giảm thời gian, thủ tục, chi phí đi lại,.. cho đối tượng thụ hưởng khi nhận trợ cấp. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích, huy động nguồn lực từ người dân và cộng đồng xã hội cho công tác giảm nghèo. Đổi mới hình thức hỗ trợ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, chuyển dần từ hình thức bao cấp toàn bộ sang đồng chia sẻ về kinh phí.
Bảo đảm bố trí để nguồn lực cho chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo đã được Quốc hội phê duyệt giai đoạn 2016-2020; tiếp tục ưu tiên các nguồn lực để thực hiện các chính sách giảm nghèo; tập trung ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA), vốn tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế-xã hội các vùng khó khăn; Ngân sách nhà nước đảm bảo chi thường xuyên để thực hiện các chính sách hỗ trợ các đối tượng nghèo ổn định đời sống, phát triển sản xuất vươn lên thoát nghèo.
Ưu tiên nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số; huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu; xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo.
Giải quyết cơ bản tình trạng hộ đồng bào dân tộc thiểu số không có đất ở và giải quyết đất sản xuất hoặc chuyển đổi nghề cho ít nhất 80% hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đang thiếu đất sản xuất; kết hợp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa được hỗ trợ đất sản xuất, nghiên cứu, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách giải quyết tình trạng di dân không theo quy hoạch ở một số địa phương.
Quan tâm đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ để đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm của các ngành sản xuất, chế biến nông, lâm sản cho hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo; chú trọng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi là đặc sản bản địa, có giá trị hàng hóa và có hiệu quả cao. Đồng thời, phát triển có chọn lọc những tri thức bản địa nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ cập giáo dục và tỉ lệ đào tạo nghề khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số; phân luồng, đào tạo nghề hợp lý, hiệu quả; duy trì các chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; nâng cao tỉ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ở địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn; phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú với quy mô phù hợp; đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo cử tuyển gắn với sử dụng.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hỗ trợ về y tế, thực hiện mục tiêu bảo đảm ít nhất 90% hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế; 70% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, trên 90% trạm y tế cấp xã có đủ điều kiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và chính sách bảo hiểm y tế để bảo đảm tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, người cận nghèo.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước; hoàn thiện cơ chế điều hành, phân công đầu mối chịu trách nhiệm chính, phân cấp đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể cho địa phương; cải cách thủ tục hành chính và phương thức để người dân, cộng đồng thuận lợi hơn khi tham gia và tiếp cận chính sách giảm nghèo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự vươn lên thoát nghèo.
Ngoài ra, Chính phủ cũng nhấn mạnh nhiệm vụ công khai, minh bạch các chính sách hỗ trợ giảm nghèo của Nhà nước để người dân được biết; đồng thời, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của cơ quan thanh tra, kiểm toán, các cơ quan Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội và người dân./.
Nguyễn Hoàng