|
Hội nghị lấy ý kiến các tổ chức, nhà khoa học về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). |
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam vừa ban hành báo cáo số 648/BC-MTTW-BTT về Kết quả lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
Phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của Nhân dân
Báo cáo cho biết, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức 12 hội nghị, hội thảo với 230 lượt ý kiến góp ý; Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố đã tổ chức 51.153 hội nghị, hội thảo với gần 1,4 triệu lượt góp ý kiến tâm huyết, sâu sắc, góp ý vào hầu hết các ý kiến của toàn bộ dự thảo. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến MTTQ các cấp trong tỉnh Quảng Ninh tổ chức được 2.561 hội nghị góp ý kiến; MTTQ Tây Ninh tổ chức 10.182 hội nghị góp ý kiến; Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố Đà Nẵng đã đã tổ chức 106 cuộc...
Cùng với đó, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã nhận được tổng số trên 8,3 triệu ý kiến góp ý cụ thể vào từng quy định trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của các tổ chức, cá nhân.
Rất nhiều ý kiến tâm huyết đã được gửi tới Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, trong số đó có những bản đóng góp lên đến hàng chục trang góp ý vào hầu hết các nội dung trong dự thảo, có những bản góp ý được viết tay tỉ mỉ, trang trọng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến dự thảo này. Một số tổ chức, cá nhân gửi nhiều bản góp ý trong suốt thời gian lấy ý kiến Nhân dân, đóp góp vào nhiều chương mục trong dự thảo.
Hầu hết các ý kiến đều đánh giá Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đưa ra lấy ý kiến Nhân dân đã có nhiều nội dung mới và có định hướng trong Văn kiện Đại hội Đảng khóa XIII, các Nghị quyết, kết luận của Đảng, của Quốc hội. Đặc biệt đã thể chế hóa 3 mục tiêu tổng quát, 6 mục tiêu cụ thể, 6 nhóm giải pháp và 8 nhóm chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW và giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.
Nhân dân đánh giá cao việc Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo và xây dựng Luật Đất đai để thể chế hóa sớm nhất Nghị quyết số 18-NQ/TW. Việc sửa đổi Luật Đất đai là một vấn đề rất cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay vì đây không chỉ là một đạo luật quan trọng, phức tạp, giữ vai trò căn bản trong hệ thống pháp luật về đất đai mà nó có mối quan hệ và ảnh hưởng sâu sắc đến việc thực thi các chính sách quy định trong rất nhiều luật khác...
Việc tổ chức lấy kiến Nhân dân rộng rãi lần này đã phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết, thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân để hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới; góp phần tạo sự thống nhất và đồng thuận trong Nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai. Đồng thời nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cũng còn có ý kiến cho rằng việc sửa đổi Luật lần này cần thêm thời gian, việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân tuy cần thiết nhưng còn gấp gáp, không tránh khỏi tình trạng hình thức còn diễn ra ở nhiều địa phương, đơn vị. Để Luật Đất đai (sửa đổi) thực sự chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết 18 thì đề nghị Quốc hội cân nhắc, xem xét có nên thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) vào kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV, có thể lùi thời hạn thông qua để có thời gian nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện dự thảo.
Dự án đô thị phải thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận
Nội dung báo cáo tổng hợp nêu rõ, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ghi nhận việc tiếp thu, chỉnh lý nhiều lần của Ban Soạn thảo, Dự thảo lần này cơ bản đã thể chế hóa những chính sách lớn tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tập hợp, tổng hợp ý kiến của Nhân dân, Ban Thường trực nhận thấy hiện vẫn còn một số nội dung chưa thật sự phù hợp hoặc thể chế chưa đầy đủ Nghị quyết số 18. Thậm chí nhiều điều luật trong dự thảo không mang tính quy phạm mà diễn đạt lại nội dung của Nghị quyết, chưa quy định rõ quyền, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan hệ pháp luật về đất đai.
Đối với việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đô thị, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng, xuất phát từ thực tế, nếu thoả thuận thì có một số vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Nhưng nếu để Nhà nước thu hồi đất cũng sẽ phát sinh một số vướng mắc mà hiện nay người sử dụng đất chưa đồng thuận cao. Bởi vì khi thu hồi bồi thường là giá đất nông nghiệp. Sau đó đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bao nhiêu thì không có ai kiểm soát và khi thành đất ở giá chênh lệch nhiều lần nên cũng tạo ra vướng mắc, chưa công bằng.
|
Hội nghị góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) do Hội đồng tư vấn Khoa học, Giáo dục và Môi trường - Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức. |
Mặc dù trong dự thảo đưa ra lấy ý kiến Nhân dân lần này, Điều 78 vẫn quy định là Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng bao gồm rất nhiều điểm, trong đó Ban Soạn thảo đã tiếp thu và không còn quy định thu hồi đất để thực hiện dự án nhà ở thương mại, tuy nhiên điểm h vẫn quy định về dự án đô thị sử dụng các loại đất không phải là đất ở. Như vậy trong dự thảo vẫn quy định dự án đô thị do Nhà nước thu hồi đất.
Bởi vậy, ban soạn thảo cân nhắc thật kỹ lưỡng điều khoản này để phù hợp với Nghị quyết 18; đồng thời Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: Dự án đô thị phải thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong trường hợp, dự án đã thỏa thuận được trên 80% số hộ dân có đất ảnh hưởng bởi dự án nhưng số còn lại không thể thỏa thuận được thì trên cơ sở đề xuất của doanh nghiệp, Nhà nước tiến hành thu hồi đất đối với phần diện tích không thể thỏa thuận.
Làm rõ khái niệm “điều kiện sống bằng khoặc tốt hơn nơi ở cũ”
Dự thảo Luật đã cụ thể hóa quan điểm bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ tại điểm a khoản 4 Điều 85 về Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và Điều 89 về Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Các ý kiến cho rằng, điểm 2 khoản 4 Điều 85 là chưa đủ để thể chế hết quan điểm tại Nghị quyết, cần cụ thể hóa hơn nữa trong luật đến việc triển khai thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư (như chi trả tiền bồi thường, bố trí tái định cư xong), sau đó mới ban hành quyết định thu hồi đất. Điều 3 dự thảo Luật không giải thích khái niệm thế nào là “có điều kiện sống bằng khoặc tốt hơn nơi ở cũ” và dự thảo cũng không đưa ra tiêu chí hay phương thức đối sánh trước khi bồi thường và sau khi bồi thường để định lượng việc Nhà nước bồi thường cho người bị thu hồi đất có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ hay không.
Khoản 2 Điều 89 gần như diễn đạt lại nội dung của Nghị quyết. Do đó, Ban Soạn thảo cân nhắc bổ sung, cụ thể hóa nguyên tắc đề cập tại khoản 2 Điều 89 của dự thảo, theo đó: Một là: giải thích rõ hiểu thế nào là người bị thu hồi đất sau khi được bồi thường có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ: Hai là, bổ sung quy định về một số tiêu chí đánh giá cụ thể, mang tính định lượng việc Nhà nước bồi thường cho người có đất bị thu hồi.
|
Hội nghị lấy ý kiến vào dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của các nhân sĩ, trí thức, luật gia, người tiêu biểu các dân tộc thiểu số, chức sắc các tôn giáo là Ủy viên UBTƯ MTTQ Việt Nam, các chuyên gia, nhà khoa học một số tỉnh khu vực phía Bắc. |
Dự thảo nên cân nhắc các khía cạnh về cơ sở hạ tầng, điều kiện ổn định cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của người dân (điện, đường, trường, trạm, hệ thống cấp, thoát nước, thông tin liên lạc, xử lý môi trường, điều kiện tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm…)
Một trong những nhiệm vụ đưa ra tại mục 2.4 của Nghị quyết 18-NQ/TW là “Có cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định giá đất, bảo đảm tính độc lập của hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư vấn xác định giá đất, năng lực và đạo đức của các định giá viên”. Ở dự thảo lần này, hội đồng thẩm định giá đất, bảng giá đất quy định tại Điều 156 chưa thể coi là độc lập với các cơ quan liên quan trong việc xác định và quyết định giá đất/giá đất cụ thể khi UBND vừa là cơ quan có thẩm quyền lập, quyết định và cũng là chủ trì Hội đồng thẩm định bảng giá đất. Thành phần của Hội đồng thẩm định giá đất chỉ có 01 tổ chức độc lập là Tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất, chuyên gia về giá đất và các thành viên khác nhưng lại do UBND cấp tỉnh, cấp huyện quyết định. Còn lại thành viên hầu hết đều là các sở ngành, là đại diện của các cơ quan thuộc UBND, vai trò của MTTQ Việt Nam trong hội đồng này cũng khá mờ nhạt, nên không thể bảo đảm tính độc lập của hội đồng.
Thể chế hóa tinh thần Nghị quyết các chính chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nghị quyết số 18-NQ/TW xác định “Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh; …; đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số” và nêu rõ định hướng: “…Có chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp … đối với hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình người có công với cách mạng..”; “Có chính sách phù hợp để ưu tiên giao đất cho đồng bào dân tộc thiếu đất sản xuất, cùng với các cơ chế hiệu quả để ngăn chặn người dân chuyển nhượng sau khi được giao đất; và một số nội dung liên quan khác đến chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số: đất ở, đất nông nghiệp kết hợp với thương mại, dịch vụ; giao đất rừng; thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…
Qua nghiên cứu dự thảo Luật cho thấy các quy định đối với đồng bào dân tộc thiểu số có: 04 điều khoản quy định riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 17, Điều 52; khoản 2 Điều 174; điểm a, khoản 3 Điều 175); 04 điều khoản quy định cho một số đối tượng ưu tiên, trong đó có dân tộc thiểu số (khoản 1 Điều 40; điểm d, khoản 2 Điều 125; khoản 1 Điều 137; khoản 1 Điều 152). Trong đó: Các chính sách đã được quy định cụ thể là: (1) Giao đất ở; (2) Giao đất sản xuất; (3) Được ưu tiên hơn so với đối tượng khác khi thực hiện giao đất, cho thuê đất; (4) Được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ khi được giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cho rằng, với những nội dung quy định như trên cho thấy dự thảo Luật chưa thể chế hóa đầy đủ tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW; các chính sách đối với dân tộc thiểu số trong các điều luật chưa thể hiện được nguyên tắc nêu tại tên Điều 17 là “…có đất để sản xuất, kinh doanh, đảm bảo sinh kế”, do đó cần tiếp tục xem xét, sửa đổi, bổ sung. Cùng với đó, chính sách “tạo điều kiện” trong Điều 17 dự thảo cần sửa thành “ưu tiên” theo đúng quan điểm của Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Đề nghị bổ sung trong dự thảo quy định đất ở, đất sản xuất hình thành từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho người dân tộc thiểu số khi thực hiện chính sách dân tộc thì không được mua bán, chuyển nhượng. Trong trường hợp thật sự có nhu cầu sử dụng thì phải được UBND cấp huyện hoặc cơ quan dân tộc cấp tỉnh đồng ý.../.