ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN - “CON ĐƯỜNG CỦA Ý CHÍ VÀ SỨC SÁNG TẠO VIỆT NAM” THẾ KỶ XX 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta (1954 - 1975) là bản hùng ca bất tử về tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí sắt đá và sức sáng tạo kỳ diệu Việt Nam trong thế kỷ XX; trong đó, những “chiến công” gắn liền với con đường huyền thoại - “Đường Hồ Chí Minh trên biển” là một trong những minh chứng cụ thể và sinh động nhất. 60 năm đã trôi qua, nhưng những “kỳ tích” của “Đoàn tàu không số” trên tuyến vận tải chiến lược - “Đường Hồ Chí Minh trên biển” mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, Nhân dân ta, quân đội ta; tiếp thêm niềm tin, sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.

Ngược dòng lịch sử, bước vào năm 1959, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam có những chuyển biến mới. Đặc biệt, tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược quan trọng đối với cách mạng miền Nam. Từ thế đấu tranh chính trị hòa bình, giữ gìn lực lượng, cách mạng miền Nam chuyển sang thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 chỉ rõ: “… ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ… con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”.

Sự phát triển của cách mạng miền Nam đặt ra yêu cầu mới, trong đó việc chi viện sức người, sức của, vũ khí là yếu tố hết sức quan trọng. Ngày 19/5/1959, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lâp “Đoàn công tác đặc biệt” sau đổi tên thành Đoàn 559, có nhiệm vụ mở đường giao thông quân sự vào miền Nam, đưa bộ đội, vận chuyển hàng quân sự, lương thực, thuốc men… cho cách mạng miền Nam, trước mắt là cho Liên khu 5. Tuy vậy, thời điểm này, đường vận tải chiến lược Trường Sơn mới chỉ vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu 5; các tỉnh còn lại của Khu 5 và Nam Bộ chưa thể thực hiện đươc.

 Để giải quyết khó khăn về chi viện cho miền Nam, tháng 7/1959, Tổng Quân ủy quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải đường thủy 603 lấy tên là “Tập đoàn đánh cá sông Gianh” làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí bằng thuyền buồm vào chi viện cho Khu 5, tuy nhiên, chuyến vận chuyển đầu tiên vào tháng 1/1960 không mang lại kết quả. Bộ Tổng Tự lệnh chỉ thị cho Tiểu đoàn 603 ngừng hoạt động, giải thể và sáp nhập vào lực lượng của Đoàn 559.  

Mặc dù việc vận chuyển bằng thuyền buồn chưa mang lại hiệu quả, nhưng Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc Phòng vẫn chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu mở tuyến vận tải chiến lược trên biển, theo phương châm: “Tận dụng mọi hình thức hợp pháp và bất hợp pháp, bất hơp pháp là chủ yếu; kiên quyết bảo vệ hàng trong mọi tình huống; không thể bảo vệ được hàng thì triệt để thủ tiêu không để hàng lọt vào tay địch; tuyệt đối giữ bí mật mọi kế hoạch hành động. Xây dựng lực lượng gọn nhẹ, bảo đảm chất lượng. Yêu cầu cán bộ, thủy thủ phải có trình độ giác ngộ chính trị cao, chuyên môn giỏi và có sức khỏe tốt; phương pháp tiến hành phải đảm bảo chắc ăn, lợi dụng sơ hở của địch để tổ chức vận chuyển theo khả năng phương tiện vận tải thô sơ, bán hiện đại; bảo đảm mọi sinh hoạt chặt chẽ và giữ bí mật từng bộ phận công tác”.

Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QĐ-QP thành lập Đoàn vận tải biển 759 dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh, làm nhiệm vụ vận chuyển chiến lược chi viện cho cách mạng miền Nam. Đồng chí Trung tá Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng. Lực lượng của Đoàn ban đầu có 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 20 đồng chí thuộc các thuyền của Bến Tre, Trà Vinh và Liên khu V vừa điều ra. Quyết định thành lập Đoàn 759 thể hiện tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Bộ Chính trị mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền Nam. Sau khi thành lập, Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí. Để bảo đảm được yếu tố bí mật, bất ngờ của nhiệm vụ và con đường vận chuyển trên biển, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Đoàn 759 dùng các tàu thuyền có kiểu đáng giống tàu thuyền miền Nam để vận chuyển và chọn cán bộ có phẩm chất chính trị, năng lực công tác, giỏi chuyên môn, có kinh nghiệm, chịu đựng sóng gió tốt.

Sau gần 1 năm nghiên cứu, chuẩn bị, đêm 11/10/1962 chiếc tàu gỗ mang mật danh “Phương Đông 1” làm nhiệm vụ vận chuyển chuyến hàng đầu tiên với hơn 30 tấn vũ khí rời bến Vạn Sét (Đồ Sơn - Hải Phòng) rẽ sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Tàu do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên cùng 13 cán bộ, chiến sỹ. Đến ngày 19/10/1962, tàu Phương Đông 1 cập bến Vàm Lũng (xóm Rạch Gốc, xã Tân An, huyện Năm Căn, Cà Mau) an toàn. Thành công của tàu Phương Đông 1 có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng tuyến vận tải chiến lược “Đường Hồ Chí Minh trên biển” để chia lửa cho Đoàn 559 chi viện miền Nam; đồng thời khai thông tuyến đường biển để mở ra khả năng chi viện một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh cho cách mạng miền Nam trong thời gian tới. Tiếp theo tàu Phương Đông 1, các tàu Phương Đông 2, 3, 4 cũng lần lượt lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ. Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào miền Nam 111 tân vũ khí, hàng hóa. Nếu tính đi đường bộ, mỗi người mang 20 kg, thì để mang được 111 tấn hàng hóa, vũ khí phải mất trên 5.550 người đi liên tục trong nhiều tháng. Nếu mỗi người mỗi ngày sử dụng 0,5 kg lương thực thì phải sử dụng 2.775 kg lương thực chưa tính thực phẩm, thuốc men và các điều kiện cần thiết khác, cũng như những hao hụt, tổn thất trên đường đi.

Những thàng công bước đầu củng cố thêm quyết tâm của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong việc tận dụng tuyến vận tải trên biển để chi viện hiệu quả hơn cho miền Nam. Cuối năm 1962 đầu năm 1963, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đề nghị Bộ Chính trị và Chính phủ đầu tư những con tàu tốt hơn, trọng tải lớn hơn. Nhờ vậy, từ tháng 8/1963, Đoàn 759 đã hình thành được 6 đội tàu võ sắt trọng tải 50 - 60 tấn để vận chuyển hàng. Ngày 24/3/1963, tàu vỏ sắt đầu tiên mang phiên hiệu 43, chở gần 45 tấn vũ khí cập bến Rạch Láng Nước (Trà Vinh) an toàn. Chỉ trong 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ số vận chuyển cao. Phát huy kết quả vận chuyển bằng đường biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu. Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Đêm 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phòng) đã mở bến vào Bà Rịa thành công, chi viện vũ khí kịp thời cho Khu 7. Thành công này chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương trong quyết tân tận dụng đường biển để vận chuyển nhanh và nhiều hàng nhất chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1963, Bộ Chính trị chỉ đạo đóng thêm các tàu vỏ sắt trọng tải từ 50-100 tấn và một số tàu vỏ gỗ trọng tải 30 tấn để tăng cường cho Đoàn 759.

Tháng 8/1963, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương quyết định chuyển giao Đoàn 759 cho Cục Hải quân phụ trách lãnh đạo, chỉ huy toàn diện mọi mặt, riêng việc chỉ huy hành quân và liên hệ với chiến trường do Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo; công tác Đảng, công tác chính trị do Tổng cục Chính trị chỉ đạo. Tổng cục Hậu cần đảm bảo công tác hậu cần. Ngày 29/1/1964, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 30/QĐ-QP chính thức chuyển Đoàn 759 về trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải Quân, đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành đoàn 125.

Tính từ tháng 10/1962 đến tháng 2/1965, Đoàn 759 đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt, tổ chức 88 chuyến tàu tới đích (không tính các chuyến trinh sát, mở đường), vận chuyển hơn 4.919 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến trường miền Nam (Cà Mau, Bạc Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rô 4 chuyến, Bình Định 1 chuyến), đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới đích đã là thành công). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao nhất: 100% (57/57) số chuyến thành công.

Công việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô ngày 16/2/1965. Con đường vận chuyển chiến lược trên biển không còn giữ được bí mật nữa. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam để nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp với tình hình. Trong điều kiện địch kiểm soát gắt gao, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Hải Quân đã nghiên cứu, tham mưu Quân ủy Trung ương phương án vận chuyển theo tuyến đi mới cho tàu vòng ra xa theo đường hàng hải quốc tế, qua cả những vùng biển lạ, nguy hiểm, tìm thời cơ địch sơ hở để đưa tàu vào bến. Theo cách làm này, trong vòng 8 tháng (từ tháng 10/1965 đến tháng 5/1966) ta đã thực hiện thành công các chuyến vận chuyển hàng vào Nam Bộ. Con đường vận tải trên biển tiếp tục được nối thông.

Tháng 6/1966, tàu C100 và C187 của ta gặp sự cố, địch đã biết ta vẫn tìm cách vận chuyển vũ khí vào miền Nam bằng đường biển nên chúng gia tăng các biện pháp ngăn chặn, phong tỏa. Tình hình vận chuyển trên biển vô cùng khó khăn, thương vong, hy sinh, mất mát. Dù đã lường trước được những khó khăn, gian khổ, hy sinh phải đối mặt, nhưng do yêu cầu cấp thiết của chiến trường, ta vẫn phải tiếp tục tổ chức các chuyến đi vào Khu 5, nhưng đều không thành công. Có chuyến phải quay về, có chuyến phải chiến đấu với địch rồi hủy tàu. Duy nhất có 1 chuyến của tàu C235 (tháng 2/1968) đưa được hàng vào bến thả xong hàng thì phải chiến đấu, hủy tàu, 20 cán bộ, chiến sĩ chiến đấu vô cùng quả cảm, 15 đồng chí hy sinh, 5 đồng chí sống sót với thương tích đầy mình, trở về được đơn vị, tiếp tục làm nhiệm vụ. Tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân Sài Gòn viết: “ Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập, tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết…”. Sự kiện Tàu 235 chỉ là một ví dụ về sự khốc liệt, khó khăn của công tác vận chuyển chi viện chiến trường trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.

Đề phù hợp với tình hình mới, Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ đạo: “Tạm dừng vận tải trực tiếp vào chiến trường, tiến hành rút kinh nghiệm, tìm nguyên nhân và tiếp tục nghiên cứu nhiều phương thức vận chuyển, sử dụng nhiều loại phương tiện, có nhiều biện pháp khác nhau để thực hiện nhiệm vụ; củng cố chấn chỉnh lực lượng, tập trung vào công tác chính trị, tư tưởng nhằm giữ vững và nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu của bộ đội, đồng thời phát triển lực lượng vận tải, sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có lệnh”.

Từ năm 1968 đến 1970, Đoàn 125 vừa củng cố xây dựng lực lượng mọi mặt vừa thực hiện vận chuyển hàng hóa từ miền Bắc tập kết ở Nam Khu 4 để tạo nguồn hàng cho tuyến vận chuyển chiến lược đường Trường Sơn 559 chuyển tiếp vào chiến trường miền Nam.

Tháng 4/1971, Đại tướng Võ Nguyên giáp chủ trì cuộc họp Quân ủy Trung ương kết luận: “Đồng ý cho Quân khu 9 sử dụng phương thức vận chuyển công khai, hợp pháp theo đường biển”. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Quân khu 9 đã thành lập Đoàn S950 (đến năm 1972 đổi tên là Đoàn 371) làm nhiệm vụ vận chuyển hợp pháp từ điểm trung chuyển vào bờ. Thời gian này, Đoàn 125 bị máy bay địch theo dõi, đánh phá trên biển Đông nên không thể đưa hàng vào điểm trung chuyển ở vịnh Thái Lan như đã hiệp đồng, Đoàn S950 phải đưa thuyền đánh cá hợp pháp ra nhận hàng ở khu vực đảo Hải Nam (Trung Quốc). Từ năm 1971 đến năm 1972, Đoàn đã tổ chức 37 chuyến đi, vận chuyển được 620 tấn vũ khí vào chiến trường Khu 9 an toàn. Con đường vận chuyển trên biển bị địch phong tỏa, một lần nữa lại được nối thông trở lại.

Tháng 12/1973, hoạt động của Đoàn 371 bị bại lộ. Quân ủy Trung ương chỉ thị Đoàn 371 tạm dừng vận chuyển, tập trung củng cố lại đơn vị và các bến cho chặt chẽ, đưa vào hoạt động bí mật; kiên trì xây dựng lại cơ sở, cải dạng và củng cố lại các thuyền để sẵn sàng làm nhiệm vụ. Theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Đoàn 371 đổi tên thành Đoàn G473 thực hiện vận chuyển theo phương châm “Khẩn trương, vững chắc, bí mật, đơn tuyến”.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình độ mọi mặt và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, sẵn sàng lên đường khi có lệnh. Với tinh thần trách nhiệm cao, trong 2 năm 1973 và 1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu ra khơi, chuyên chở trên 43.000 tấn hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sĩ từ hậu phương ra tiền tuyến và từ đất liền ra các đảo, vượt qua chặng đường 158.292 hải lý an toàn.

Cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa, sát hơn nữa nơi ta mở chiến dịch. Đoàn 125 đã huy động toàn bộ lực lượng thực hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến trường (mật danh T5) và vận chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở người và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng 3,4/1975, Đoàn đã vận chuyển 17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường; 40 xe tăng và 7.886 tấn vũ khí, nhiên liệu... góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 04/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân khẩn trương chuẩn bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đoàn 125 nhanh chóng thành lập một biên đội gồm 3 tàu: Tàu 673, 674, 675, hành quân từ Hải Phòng vào Đà Nẵng chở Đoàn 126 Bộ đội Đặc công Hải quân và một bộ phận của Tiểu đoàn 471 Đặc công Quân khu 5 ra giải phóng đảo. Từ ngày 14-29/4/1975, các lực lượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa lớn. Tiếp đó, Đoàn 125 tham gia giải phóng một số đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam.

Qua 14 năm ròng rã (1961-1975), những chuyến tàu không số của Đoàn 759 đã lập công xuất sắc, đưa 152.876 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh cho miền Nam; đưa đón 80.026 lượt cán bộ, chiến sĩ (trong đó có hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, của quân đội) vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc, vượt qua gần 4 triệu hải lý an toàn. Cán bộ, chiến sĩ trên các con tàu đã chiến đấu 300 lần với địch và bị hơn 1.200 lần máy bay địch bắn phá nhưng vẫn bảo đảm được nhiệm vụ. Trong 168 con tàu ra đi từ năm 1966 đến năm 1972, có 8 trường hợp phải phá tàu; gần 100 cán bộ, chiến sỹ - những người con ưu tú của đoàn “tàu không số” đã ngã xuống trên biển, để làm nên những “kỳ tích” cho cuộc trường chính vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX.

Ngày nay, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biển phức tạp, khó lường. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo đã và đang đặt ra những yêu cầu và thách thức mới. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải nâng cao cảnh giác, chủ động nắm chắc, dự báo chính xác mọi động thái, ngăn ngừa nguy cơ xung đột từ sớm, từ xa. Tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng, an ninh, đối ngoại vùng biển và ven biển vững mạnh. Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lý, bảo vệ vùng trời, vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Phát triển kinh tế gắn liền với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên các vùng biển, đảo… Kiên quyết không để mất một sải biển, một tấc đảo nào của Tổ quốc.

Các lực lượng hoạt động trên biển, nòng cốt là các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của của Tổ quốc: Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ đội Biên phòng, Dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư… phát huy truyền thống vẻ vang của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; chủ động, sáng tạo, chăm lo xây dựng lực lượng vững mạnh toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; đồng thời duy trì sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình trên các vùng biển, nhất là vùng biển trọng điểm, nhạy cảm, không để bị động, bất ngờ. Tăng cường huấn luyện làm chủ và phát huy hiệu quả trang bị, nâng cao khả năng tuần tra, kiểm soát, bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự, an toàn các hoạt động kinh tế biển. Khi có tình huống, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phương châm, đối sách, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xử lý nhằm kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển.

Những “kỳ tích” gắn liền với “Đoàn tàu không số” trên tuyến đường huyện thoại “Đường Hồ Chí Minh trên biển” đã bất tử với thời gian. Trong suốt 14 thực hiện nhiệm vụ, dù kẻ thù luôn dùng đủ “trăm phương nghìn kế” để phong tỏa, kiểm soát, ngăn chặn, hủy diệt nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Đoàn tàu không số” vẫn vượt sóng ra khơi, mang theo không chỉ vũ khí, hàng hóa mà còn cả tình cảm, niềm tin, ý chí và khát vọng độc lập, thống nhất của hậu phương miền Bắc đến với miền Nam ruột thịt, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Kế thừa, phát huy truyền thống của “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng Tổ quốc trong mọi tình huống không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự lớn lao của các thế hệ hôm nay và mai sau.

Nguyễn Ngọc Tuấn – Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị

990 Go top

Hiện tại không có bình chọn nào đang hoạt động.
Thống kê truy cập
  • Người trực tuyến Người trực tuyến
    • Khách Khách 964
    • Thành viên Thành viên 0
    • Tổng Tổng 964
    • Tổng lượt truy cập: Tổng lượt truy cập: 87005655